Tải file tại đây:

  1. Tài liệu giáo án bài giảng điện tử
  2. Đề cương thảo luận chi tiết


 

ĐỀ CƯƠNG THẢO LUẬN

HỌC PHẦN: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Vấn đề 1:  Tư tưởng Hồ Chí Minh là gì? Vấn đề cốt lõi trong 9 nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh? Sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay? Liên hệ bản thân?

Trả lời

  1. Tư tưởng Hồ Chí Minh là gì?

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng nhiệt huyết, hết lòng vì nước, vì dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại một di sản tinh thần hết sức sâu sắc, cao cả không chỉ góp phần to lớn và quyết định vào thắng lợi của dân tộc trong những năm qua mà còn có ý nghĩa chỉ đạo lâu dài cho sự nghiệp cách mạng của Đảng ta, nhân dân ta. Tổng hợp những giá trị tinh thần đó là tư tưởng Hồ Chí Minh.

Vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh là gì? Trong Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương tại Đại hội IX của Đảng đã nêu rõ:

“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế và văn hoá, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân…

 

Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”.

Định nghĩa về tư tưởng Hồ Chí Minh như trên thể hiện:

– Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ đến cách mạng xã hội chủ nghĩa.

– Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.

– Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kế thừa và phát huy giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam và tinh hoa văn hoá nhân loại.

– Tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong hơn 70 năm qua, tiếp tục soi sáng con đường cách mạng Việt Nam trong thời gian tới.

  1. Vấn đề cốt lõi trong 9 nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh?

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Bao gồm 9 nội dung cơ bản, đó là:

  1. Tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.

Toàn bộ cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh và mong muốn của Người là mục tiêu giành độc lập, tự do cho đất nước, đem lại hạnh phúc cho nhân dân, làm cho nhân dân “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Để thực hiện mục tiêu đó cần thực hiện sự giải phóng triệt để: Đó là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Chính vì mục tiêu cao cả đó, Người ra đi tìm đường cứu nước và đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho cách mạng Việt Nam, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp giải phóng nhân dân lao động trên toàn thế giới.

  1. Tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

Người đã chỉ ra rằng: “Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Người đã giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại. Những tư tưởng quan trọng này xuất phát từ một đòi hỏi thực tiễn bức xúc: Phải chống chủ nghĩa thực dân, phải gắn liền cách mạng thuộc địa với cách mạng ở chính quốc. Con đường để giữ vững độc lập, tự do, hạnh phúc, ấm no cho dân tộc là con đường đi lên xã hội chủ nghĩa, phải tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên mọi lĩnh vực. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chủ đạo trong toàn bộ di sản lý luận Hồ Chí Minh.

  1. Tư tưởng về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc.

Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Hồ Chí Minh đã đưa vai trò của nhân dân lên tầm cao mới: Nhân dân là chủ thể sáng tạo ra lịch sử, là người chủ thực sự của đất nước; coi nhân tố con người là nguồn lực cơ bản tạo nên sức mạnh vô địch để kháng chiến, kiến quốc. Người thường nói: Dễ trăm lần không dân cũng chịu; khó vạn lần dân liệu cũng xong. Sức mạnh của nhân dân được nhân lên gấp bội khi thực hiện được khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trên nền tảng liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng tạo nên sức mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam. Người khẳng định: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”..

  1. Tư tưởng về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân.

Dân chủ là bản chất của chế độ XHCN. Dân chủ là mục tiêu, là động lực của cách mạng XHCN. Thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng, trong nhân dân là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta. Nhà nước là công cụ chủ yếu để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình. Do đó, Hồ Chí Minh coi trọng việc xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, của dân, do dân, vì dân. Nhà nước ta mang bản chất giai cấp công nhân, có tính dân tộc và nhân dân sâu sắc do Đảng lãnh đạo, hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thống nhất quyền lực; đội ngũ cán bộ Nhà nước phải có đức, có tài, phải thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, là công bộc của nhân dân, vì nhân dân mà phục vụ. Để xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chỉ rõ phải kiên quyết đấu tranh chống tham ô, lãng phí, quan liêu. Coi tham ô, lãng phí, quan liêu là ba thứ “giặc nội xâm” rất nguy hiểm.

  1. Tư tưởng về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.

Vận dụng sáng tạo tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin về bạo lực cách mạng, Hồ Chí Minh luôn coi bạo lực cách mạng là sức mạnh tổng hợp của nhân dân, bao gồm các hình thức: Chính trị, quân sự và sự kết hợp giữa chính trị và quân sự. Trong quá trình đấu tranh giành và giữ chính quyền, giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, bên cạnh việc chăm lo xây dựng lực lượng chính trị, phải chăm lo xây dựng, củng cố lực lượng vũ trang, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, thực hành chiến tranh nhân dân với sức mạnh tổng hợp. Người nhấn mạnh: Quân sự phải phục tùng chính trị, lấy chính trị làm gốc. Quân đội ta là quân đội nhân dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phục vụ, quân đội ta là đội quân chính trị, đội quân chiến đấu, đội quân công tác. Lực lượng vũ trang nhân dân đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng.

  1. Tư tưởng về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

Suốt đời Hồ Chí Minh phấn đấu cho độc lập dân tộc và hạnh phúc của nhân dân. Người chỉ rõ: Nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì! Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”.

  1. Tư tưởng về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư.

Hồ Chí Minh luôn chăm lo giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên và mọi người dân về phẩm chất đạo đức cách mạng. Người đặt lên hàng đầu tư cách “Người cách mệnh” và bản thân Người cũng là một tấm gương sáng về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Người coi đạo đức như là gốc của cây, là nguồn của các dòng sông. Người cộng sản mà không có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Cốt lõi của đạo đức cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh là trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do, vì CNXH.

  1. Tư tưởng về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau.

Người coi bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết “Vì lợi ích mười năm trồng cây; vì lợi ích trăm năm trồng người”. Người nói: Đảng cần phải chăm lo, giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng CNXH vừa “hồng” vừa “chuyên”.

  1. Tư tưởng về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

Theo Hồ Chí Minh, muốn làm cách mạng trước hết phải có Đảng cách mạng, Đảng có vững cách mạng mới thành công. Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa chân chính làm cốt, chủ nghĩa như trí khôn của người, như la bàn của con tầu. Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Muốn vậy, Đảng phải trong sạch, vững mạnh về mọi mặt: Chính trị, tư tưởng và tổ chức, kiên định mục tiêu, lý tưởng; có đường lối cách mạng đúng đắn; thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hành tự phê bình và phê bình; thực sự đoàn kết nhất trí; mỗi đảng viên phải không ngừng rèn luyện đạo đức cách mạng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ để thật sự xứng đáng là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, xứng đáng với niềm tin yêu của quần chúng nhân dân.

Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh có nội dung rất phong phú, toàn diện và sâu sắc về những vấn đề rất cơ bản của cách mạng Việt Nam, đã và đang soi đường cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Dưới ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam đã vững bước tiến lên giành những thắng lợi lịch sử có ý nghĩa thời đại sâu sắc.

Hiện nay, đất nước ta đang thực hiện đổi mới, mở cửa và hội nhập, công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bên cạnh thuận lợi, chúng ta cũng có nhiều khó khăn, do đó mỗi người cần nghiên cứu, học tập, nắm vững chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nắm vững đường lối, quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước để kiên định mục tiêu lý tưởng cách mạng: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, như Bác Hồ hằng mong muốn.

III. Sự vận dụng của Đảng Cộng sản hiện nay?

Tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin được Đại hội VII của Đảng ta chính thức đưa vào văn kiện Đại hội với sự khẳng định là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng, dân tộc ta. Từ đó đến nay, trong các lần đại hội, nhất là ở Đại hội IX và Đại hội XI, tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng được Đảng ta nhận thức sâu sắc, đúng đắn, đầy đủ. Tại Đại hội XII, mặc dù Đảng ta không đề cập trực tiếp liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh, song tư tưởng Hồ Chí Minh đã được biểu hiện sinh động trong sự vận dụng sáng tạo, phát triển, thực sự trở thành giá trị to lớn đối với con đường đi lên của dân tộc. Trong đó có những điểm quan trọng, nổi bật:

Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội

Đây là bài học, kinh nghiệm được Đảng ta tổng kết, rút ra ở nhiều kỳ đại hội gần đây. Tuy nhiên, riêng ở Đại hội XII, khi rút ra một số bài học sau 30 năm đổi mới, Đảng ta không chỉ đặt lên hàng đầu bài học về kiên định “mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”, không chỉ khẳng định cơ sở lý luận, tư tưởng của mục tiêu này là “chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh” mà đã mở rộng ra, đến “kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam”(1). Đây là điều thể hiện đúng thực tế lịch sử và cả những chặng đường tiếp theo. Bởi, trong quá trình đổi mới nói chung cũng như trong sự nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta không chỉ dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mà còn có cơ sở của truyền thống, tinh hoa dân tộc, nhân loại và cả kinh nghiệm thực tiễn quốc tế.

Ở đây, có một điểm cần lưu ý khi nhấn mạnh vấn đề kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn hiện nay là việc cần phải đấu tranh mạnh mẽ, không khoan nhượng với những luận điểm xuyên tạc của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị về con đường, mục tiêu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn cho dân tộc. Bởi, chính trước và trong thời điểm Đại hội XII, những luận điểm này càng được dồn dập tung ra, tuyên truyền, với nhiều phương thức, thủ đoạn. Các thế lực thù địch vừa trực tiếp phủ nhận, xuyên tạc con đường, mục tiêu này từ gốc rễ tư tưởng, lý luận (khi cho rằng: không có tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội hoặc tư tưởng Hồ Chí Minh đã hết giá trị, Đảng ta dựa vào đó, bấu víu vào đó như một bức bình phong, lừa gạt nhân dân (?!)) đến thực tiễn về sự không phù hợp của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, cả trong lịch sử, hiện thực, tương lai, chỉ có con đường “tuần tự” đi lên chủ nghĩa tư bản, con đường “dân chủ” của Phan Châu Trinh mới là đúng đắn. Họ còn tin tưởng, hi vọng tại Đại hội XII, Đảng ta sẽ “đổi mới lần hai” với ý là sự từ bỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Họ lập ra nhiều hội, nhóm, diễn đàn, viết bài, gửi đơn, kiến nghị… để tuyên truyền, cổ vũ cho luận điểm này. Chính vì vậy, việc Đại hội XII của Đảng ta tiếp tục khẳng định bài học hàng đầu là kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là minh chứng rõ ràng, dứt khoát phủ định những luận điệu chống đối, xuyên tạc.

Xây dựng Đảng về đạo đức

Trong phần mục tiêu chung xây dựng Đảng, Đại hội XII nêu rõ: “Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức”. Điểm mới ở đây là lần đầu tiên trong văn kiện đại hội, cùng với chính trị, tư tưởng, tổ chức, Đảng ta coi xây dựng Đảng về đạo đức là một nội dung trong công tác xây dựng Đảng. Tuy nhiên, nói như vậy, không có nghĩa từ trước đến nay, vấn đề đạo đức trong Đảng, xây dựng Đảng về đạo đức không được Đảng ta quan tâm.

Thực tế, đây là vấn đề đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra ngay từ khi chuẩn bị thành lập Đảng cũng như trong suốt quá trình Người và Trung ương Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Trong cuốn Đường kách mệnh, Người dành ngay trang đầu tiên để viết về tư cách đạo đức của người cách mạng. Sau này, đây là chủ đề trọng tâm xuyên suốt trong nhiều tác phẩm của Người như: Sửa đổi lối làm việc (năm 1947), Đạo đức cách mạng (năm 1958), Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân (năm 1969). Tổng kết 30 năm Ngày Đảng ta thành lập (năm 1960), Người khẳng định: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”(2). Như vậy, với Hồ Chí Minh, rèn luyện cán bộ, đảng viên phải chú trọng cả đức và tài, tài là quan trọng nhưng đức là gốc, “người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, lớp lớp cán bộ, đảng viên đã rèn luyện, phấn đấu theo những giá trị và tấm gương đạo đức cao đẹp được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra như trung với nước, hiếu với dân; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Có thể nói, nếu cán bộ, đảng viên của Đảng không phải phần lớn có được những phẩm chất đạo đức ấy, Đảng ta không thể trở thành một đảng cách mạng vững vàng, chắc chắn, vượt qua mọi thử thách, được nhân dân tin yêu, lãnh đạo toàn dân làm nên những thắng lợi to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, như lịch sử đã thấy. Trong sự nghiệp xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay, Đảng ta vẫn luôn khắc sâu những lời dạy đạo đức đó của Người. Nhiều nhiệm kỳ đại hội, Đảng ta đã phát động phong trào đẩy mạnh nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, rồi học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Người. Trong ba vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng của Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, Đảng ta đã coi việc “kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống…”(3) trong cán bộ, đảng viên là vấn đề trọng tâm, xuyên suốt và cấp bách nhất. Cũng chính trên cơ sở những “kết quả quan trọng” đạt được trong công tác xây dựng Đảng của khóa XI, cùng những mặt hạn chế, yếu kém, khuyết điểm còn tồn tại, Đại hội XII đã nêu cao nhiệm vụ “đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng Đảng, trọng tâm là kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI” và trong 6 nhiệm vụ trọng tâm Đại hội xác định cho nhiệm kỳ mới, nhiệm vụ thứ nhất là “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”.

Đó là những nhận thức cơ bản trong xây dựng Đảng về đạo đức của Đại hội XII. Nó có cơ sở lý luận và thực tiễn rất sâu sắc từ tư tưởng, bài học kinh nghiệm lãnh đạo, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Đặt lợi ích quốc gia – dân tộc lên trên hết

Tại Đại hội XII, sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI, Đảng ta rút ra kinh nghiệm thứ năm là “lấy lợi ích quốc gia – dân tộc làm mục tiêu cao nhất”. Còn bài học thứ tư trong 5 bài học được Đảng ta rút ra khi nhìn lại 30 đổi mới (1986 – 2016) là: “Phải đặt lợi ích quốc gia – dân tộc lên trên hết”. Như vậy, lần đầu tiên trong tổng kết quá trình lãnh đạo nói chung, Đảng ta khẳng định “phải đặt lợi ích quốc gia – dân tộc lên trên hết” là một trong những bài học quan trọng, cùng với các bài học về “kiên định”; “dân là gốc”; “tôn trọng quy luật, thực tiễn”, “nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng”. Không chỉ vậy, trong phương hướng, nhiệm vụ hoạt động đối ngoại, văn kiện Đại hội XII đã nhấn mạnh, đặt lên hàng đầu là “bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia – dân tộc”. Đây là mục tiêu cao nhất, quan trọng nhất, có ý nghĩa chỉ hướng, chi phối mọi hoạt động đối ngoại trên tất cả các lĩnh vực. Nó không chỉ “vì lợi ích quốc gia, dân tộc” như các đại hội trước của Đảng xác định mà “phải lấy lợi ích quốc gia – dân tộc” làm xuất phát điểm, làm mục tiêu, đích hướng tới để lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động đối ngoại và tham gia hội nhập quốc tế của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.

Những điểm chỉ ra ở trên phản ánh tư duy mới của Đảng ta về giải quyết hài hòa mối quan hệ lợi ích quốc gia – dân tộc Việt Nam với các quốc gia trên thế giới trong tiến trình tham gia toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay. Tuy nhiên, xét trong tiến trình lãnh đạo cách mạng của Đảng ta, vấn đề lợi ích quốc gia – dân tộc Việt Nam đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định từ rất sớm, và thực tế, khi nào lợi ích quốc gia – dân tộc được đặt lên hàng đầu, mối quan hệ dân tộc và giai cấp được giải quyết nhuần nhuyễn thì khi ấy cách mạng thắng lợi và ngược lại.

Như chúng ta đã biết, động lực chủ đạo thúc đẩy, chi phối Hồ Chí Minh trên hành trình tìm đường cứu nước và đến với chủ nghĩa Mác – Lênin chính là tinh thần dân tộc và lợi ích dân tộc. Đối với Người, quyền lợi dân tộc chưa đòi được, thì “quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”(4). Vì vậy, khi thời cơ giải phóng dân tộc đến thì “dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập”. Trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1945, Người đã viết: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Và thực tế, trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ, Người luôn giương cao ngọn cờ, chân lý của dân tộc và thời đại: Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm, “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Lợi ích dân tộc đó, với Hồ Chí Minh, còn là cơ sở để phân biệt bạn – thù, tập hợp lực lượng: “Ai làm gì lợi ích cho nhân dân, cho Tổ quốc ta đều là bạn. Bất kỳ ai làm điều gì có hại cho nhân dân và Tổ quốc ta tức là kẻ thù. Đối với mình, những tư tưởng và hành động có lợi ích cho Tổ quốc, cho đồng bào là bạn. Những tư tưởng và hành động có hại cho Tổ quốc và đồng bào là kẻ thù”(5). Có thể nói, tôn chỉ và hành động của Người là suốt đời phấn đấu vì quyền lợi dân tộc, hạnh phúc của nhân dân.

Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, trong thực tiễn 86 năm từ khi ra đời đến nay, Đảng ta có được thành công trong lãnh đạo cách mạng Việt Nam, trước hết và chủ yếu là do Đảng đã nhập thân vào dân tộc, hi sinh vì lợi ích dân tộc và đem lại độc lập, thống nhất đất nước.

Nhìn trong lịch sử, chúng ta thấy, quyền lợi quốc gia – dân tộc luôn được Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cao. Hiện nay, trước xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, Đảng ta khẳng định “phải đặt lợi ích quốc gia – dân tộc lên trên hết”. Đó không chỉ là bài học rút ra qua 30 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế, mà còn là vấn đề có tính quy luật của quá trình nhận thức và đổi mới tư duy của Đảng ta trong lãnh đạo đất nước.

  1. Liên hệ bản thân?

Trong phần mục tiêu chung xây dựng Đảng, Đại hội XII nêu rõ: “Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức”.

Trong ba vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng của Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, Đảng ta đã coi việc “kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống…” (3) trong cán bộ, đảng viên là vấn đề trọng tâm, xuyên suốt và cấp bách nhất.

Cũng chính trên cơ sở những “kết quả quan trọng” đạt được trong công tác xây dựng Đảng của khóa XI, cùng những mặt hạn chế, yếu kém, khuyết điểm còn tồn tại, Đại hội XII đã nêu cao nhiệm vụ “đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng Đảng, trọng tâm là kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI” và trong 6 nhiệm vụ trọng tâm Đại hội xác định cho nhiệm kỳ mới, nhiệm vụ thứ nhất là “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”.

Căn cứ vào những Nghị Quyết của Trung Ương, Đảng bộ Sở Kế hoạch và Đầu tư luôn tổ chức các lớp học tập và quán triệt Nghị quyết của Trung ương.

Thực tế, đây là vấn đề đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra ngay từ khi chuẩn bị thành lập Đảng cũng như trong suốt quá trình Người và Trung ương Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

Đối với bản thân là một chuyên viên của Sở Kế hoạch và Đầu tư, thực hiện nhiệm vụ chuyên môn là Giám sát và đánh giá dự án đầu tư vốn nhà nước trên địa bàn thành phố, tôi luôn luôn phấn đấu rèn luyện theo những giá trị và tấm gương đạo đức cao đẹp được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra như trung với nước, hiếu với dân; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, sửa đổi lề lối làm việc, nâng cao đạo đức cách mạng, luôn tự giữ mình để tránh chủ nghĩa cá nhân, luôn phấn đấu rèn luyện tư cách đạo đức cán bộ chú trọng cả đức và tài như Bác thường căn dặn: tài là quan trọng nhưng đức là gốc, “người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”.

 

Cách 2 Trả lời:   (Câu 1)

A/ Phân tích nội dung ,khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh

1/ Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh theo nghị quyết Đại hội XI:

    Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi.

2/ Bản chất CM và khoa học trong TTHCM

-HCM đã có sự kế thừa truyền thống dân tộc VN được thể hiện qua các giá trị căn bản sau:

Chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất tự cường: trải qua nghìn năm hun gđúc, chủ nghĩa yêu nước VN là giá trị tinh thần cao nhất của dân tộc ta nhưng có đặc điểm sâu sắc là nó mang trong mình một giá trị kép: yêu nước – thương dân – yêu nước, vấn đề dân tộc, vì thế gắn liền với con người trong tất cả các lĩnh vực của đời sống con người VN.

Tinh thần cộng đồng, đoàn kết, ý thức dân chủ được nuôi dưỡng trong quá trình dựng nước, giữ nước và trở thành truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

Dũng cảm, cần cù, thông minh, sáng tạo trong lao động sản xuất , chiến đấu đồng thời dân tộc VN luôn rộng mở đón nhận những giá trị văn minh của nhân loại để bảo tồn dân tộc, phát triển là tư duy mở, mềm dẻo của con người VN.

Chính chủ nghĩa yêu nước – nhân văn VN là cội nguồn là giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp, là điểm phát động lực lên đường cứu nước và là bộ lọc các học thuyết để HCM lựa chọn, tiếp nhận tinh hoa văn hóa nhân loại mà đỉnh cao là chủ nghĩa MÁc –Lê nin vào thực tiễn CMVN.

-HCM đã kết tinh những văn hóa phương Đông, phương Tây, Nho giáo, Phật giáo trong tư tưởng của mình.

HCM đã vận dụng Tư tưởng chủ nghĩa MÁc – Lê nin vào thực tiễn CMVN.

– Thể hiện sự sáng tạo bổ sung hoàn thiện và thể hiện nhân cách HCM.

– HCM quan tâm đến tất cả nguồn gốc, giai cấp.

3/ Vai trò của HCM đối với dân tộc VN

Hồ Chí Minh tìm ra con đường giải phóng cho dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người Việt Nam

Thành lập một chính Đảng mang bản chất giai cấp công nhân ở cách mạng Việt Nam

Truyền bá Chủ nghĩa Mác – Lênin cho nhân dân Việt Nam

Định hướng và lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành những thắng lợi to lớn

Ngày 02 tháng 9 năm 1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa

Có những chủ trương để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Đánh dấu một vị thế của Việt Nam trong khu vực và quốc tế

Mở rộng ngoại giao với tất cả các nước trong khu vực và quốc tế

Là những tấm gương để chúng ta học tập và làm theo cho đến giai đoạn hiện nay.

4/ Ý nghĩa TT HCM đối với CMVN

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng năm 1991, khẳng định lấy Chủ Nghĩa Mac- Lê nin và TT HCM làm nền tảng tư tưởng va kim chỉ nam cho hành động của Đảng.

5/ 9 Nội dung cơ bản của  Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Đó là:

  1. Tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
  2. Tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
  3. Tư tưởng về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc.
  4. Tư tưởng về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân.
  5. Tư tưởng về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.
  6. Tư tưởng về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
  7. Tư tưởng về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư
  8. Tư tưởng về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau.
  9. Tư tưởng về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Theo Hồ Chí Minh

    Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh có nội dung rất phong phú, toàn diện và sâu sắc về những vấn đề rất cơ bản của cách mạng Việt Nam, đã và đang soi đường cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Dưới ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam đã vững bước tiến lên giành những thắng lợi lịch sử có ý nghĩa thời đại sâu sắc

B/Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh có 4 giai đoạn:

Tư tưởng Hồ Chí Minh không hình thành ngay một lúc mà đã trải qua một quá trình tìm tòi, xác lập, phát triển và hoàn thiện, gắn liền với quá trình hoạt động cách mạng phong phú của người.

a/ Giai đoạn trước 1911: Tiếp nhận chủ nghĩa yêu nước và hình thành ý chí cứu nước

Đây là giai đoạn Nguyễn Sinh Cung được tiếp nhận các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc là chủ nghĩa yêu nước – nhân văn Việt Nam trong môi trường gia đình, quê hương. Người cũng được tiếp nhận tinh hoa văn hóa phương Đông nền giáo dục Nho giáo Việt Nam và bắt đầu tiếp xúc với văn hóa phương Tây. Được giáo dục chủ nghĩa yêu nước, nhưng phải chứng kiến sự khổ đau của một dân tộc nô lệ, sự bất công của xã hội đương thời cùng những cuộc đấu tranh bất khuất của cha ông đã hình thành nên ý chí cứu nước, cứu dân của Nguyễn Tất Thành . Bằng trí tuệ và sự mẫn cảm, Nguyễn Tất Thành đã quyết định đi theo con đường mới, tìm mẫu hình mới cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và con người Việt Nam.

b/ Giai đoạn 1911 – 1920: Đi tìm đường cứu nước

Đây là giai đoạn Nguyễn tất Thành Hồ ra đi tìm đường cứu nước, trước tiên Người đến nước Pháp, nơi đã sản sinh ra tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, tiếp tục đến nhiều nước ở châu Âu, châu Phi, châu Mỹ, sống và hoạt động với những người dân bị áp bức ở phương Đông và những người làm thuê ở phương Tây. Người đã khảo sát, tìm hiểu cuộc cách mạng Pháp, cách mạng Mỹ, tham gia Đảng Xã hội Pháp, tìm hiểu Cách mạng Tháng Mười Nga, học tập và đã tìm đến với chủ nghĩa Lênin, tham dự Đại hội Tua, đứng về phía Quốc tế cộng sản, tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Đây là thời kỳ Hồ Chủ Minh đã có sự chuyển biến vượt bậc về tư tưởng, từ giác ngộ chủ nghĩa dân tộc tiến lên giác ngộ chủ nghĩa Mác–Lênin, từ một chiến sĩ chống thực dân phát triển thành một chiến sĩ cộng sản Việt Nam. Đây là một bước chuyển biến cơ bản về tư tưởng cứu nước của Hồ Chí Minh: “Muôn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.

c/ Giai đoạn 1920 – 1930: Tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành

Đây là giai đoạn Người tham gia và trưởng thanh qua hoạt động thực tiễn trong phong trào Cộng sản quốc tế và giải phóng dân tộc thế giới, bắt đầu tiến hành tổ chức truyền bá chủ nghĩa Mác – Lê Nin. Đây cũng là giai đoạn Hồ Chí Minh, thông qua các tác phẩm như Bản án chế độ thực dân Pháp ( 1925 ), Đường cách mạng ( 1927 ), Chính cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình vắn tắt của Đảng, Điều lệ vắn tắt ( 1930 ) của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định những luận điểm cơ bản về cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng Việt Nam. Đó là những quan điểm về cách mạng vô sản đối với công cuộc giải phóng dân tộc, giai cấp, con người trong thời đại mới; Về phạm trù cách mạng giải phóng dân tộc, mối quan hệ tương hố giữa cách mạng này với cách mạng vô sản ở chính quốc và tính không phụ thuộc của cách mạng giải phong dân tộc ở thuộc địa; Về xây dựng Đảng theo chủ nghĩa Mác – Lê Nin và đội ngũ cán bộ của Đảng; Về tập hợp và xây dựng lực lượng cách mạng; Về đường lối cơ bản, mục tiêu, phương pháp, bước đi và quan hệ quốc tế của cách mạng Việt Nam…

d/ Giai đoạn 1930 – 1969 : Tư tưởng Hồ Chí Minh được thực hiện và phát triển ở Việt Nam

Tư tưởng HCM gặp khó khăn thử thách vào giai đoạn 1930 – 1940 và đến 28/ 1 1941 Người về đến VN và từ đây trực tiếp lãnh đạp CM nước ta .

TT HCM được thực hiện đúng đắn ở VN. Tháng 5/1941 HCM triệu tập và chủ trì hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tám. Với những quan điểm đúng đắn trong hội nghị, Mặt trận Việt Minh được Đảng ta tổ chức và phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc trên cả nước, đồng thời tạo ra cơ sở chính trị vững chắc cho sự ra đời của lực lượng vũ trang nhân dân. Đó là những nhân tố căn bản đưa tới thành công của CM tháng tám.

Tư tưởng HCM phát triển trong điều kiện mới: Khi CM tháng 8 thành công, nước VN Dân Chủ Cộng Hòa ra đời, nước ta bước vào kỷ nguyên độc lập và CNXH.Sau hiệp định Giơ ne vơ nước ta chia cắt 2 miền. TT HCM lại được phát triển, bổ sung để  thực hiện hai nhiệm vụ chính xây dựng XHCN ở miền Bắc và giải phóng dân tộc ở miền Nam. Trong bản di cúc thiêng liêng đã chỉ rõ sự tất thắng của sự nghiệp chống Mỹ cứu nước. chỉ ra phương hướng lớn để xây dựng đất nước sau chiến tranh nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng nước VN hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ giàu manh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới.

Tóm lại TT HCM hình thành và phát triển đáp ứng đòi hỏi của lịch sử dân tộc và nhân loại trong thời đại mới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, thắng lợi của CMVN đã khẳng định nền tảng tư tưởng, kim ch3 nam cho hành động Đảng và CMVN. Đây là ta2isa3n tinh thần vô cùng quý giá của dân tộc ta và nhân loại.

C/ Sự vận dụng khẳng định hệ tư tưởng HCM của Đảng ta hiện nay:

*Trong xd nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta như sau:

– Đây là một hình thái kinh tế thị trường vừa tuân theo những quy luật

của  kinh  tế  thị  trường,  vừa  dựa  trên  cơ  sở  và  được  dẫn  dắt,  chi  phối  bởi  các

nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội.

-Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ chế thị

trường phải được vận dụng đầy đủ, linh hoạt.

– Phát huy quyền tự do kinh doanh theo pháp luật của mọi công dân để

làm giàu cho bản thân và đóng góp cho xã hội.

-Về vị trí, vai trò của các thành phần kinh tế:

+ Các  thành  ph ần  kinh  tế  hoạt  động  theo  pháp  luật  đều  là  bộ  phận  hợp

thành quan trọng của nền kinh tế, bình  đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu

dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.

+Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.

+Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển.

+Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng

vững chắc của nền kinh tế quốc dân

+Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế

+Kinh tế có vốn đầu tư  nước  ngoài được khuyến khích phát triển

– Phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, xã hội, thực hiện tiến

bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách.

– Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà nước.

*XÂY  DỰNG  NHÀ  NƯỚC  PHÁP  QUYỀN  của dân do dân và vì dân

Nhà  nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên  minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh  đạo. Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lực lập pháp, hành pháp, tư pháp. Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương.

*Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hoá, gắn kết chặt chẽ và thấm sâu  vào  toàn  bộ  đời  sống  xã  hội,  trở  thành  nền  tảng  tinh  thần  vững  chắc,  sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển

* Tiếp tục khẳng định mục tiêu, nhiệm vụ  của quốc phòng, an ninh là bảo  vệ  vững  chắc  độc  lập,  chủ  quyền,  thống  nhất,  toàn  vẹn  lãnh  thổ  của  Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hoà bình,  ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá  củacác thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng củanhân dân ta.

*Xây dựng Đảng trong sạch , vững mạnh , nâng cao năng lực lãnh đạo , năng lực cầm quyền , tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong , sức chiến đấu của Đảng . Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, coi trọng công tác bvệ Đảng , bv chính trị nội bộ , tăng cường và nâng cao chất lượng công tác tư tưởng , lý luận , công  tác kiểm tra , giám sát và công tác dân vận của Đảng , tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng

* Trong hòa bình hợp tác và hữu nghị: Nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế, tạo môi trường hòa bình và điều kiện thuận lợi để phát triển đất nước.

 Vấn đề 2: Nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy sức mạnh của nhân dân và quyền làm chủ của nhân dân? Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay? Liên hệ bản thân?

Trả lời:

  1. Nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy sức mạnh của nhân dân và quyền làm chủ của nhân dân?

Dân là chủ, dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh. Dân là chủ và dân làm chủ là vấn đề rộng lớn, xuất phát từ việc đánh giá đúng đắn vai trò của nhân dân và bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa là chế độ trong đó nhân dân lao động là người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội và làm chủ cuộc sống bản thân.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nước lấy dân làm gốc. Địa vị cao nhất là dân; mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Dân là quý nhất, mạnh nhất. “Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân”. “Đem tài dân, sức dân, của dân để làm lợi cho dân”. Trong di sản tư tưởng quý giá, Người có những điều tâm huyết: “Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi, cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”.

Từ chỗ đánh giá cao vai trò của dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, nhân dân ta từ thân phận nô lệ bước lên địa vị làm chủ là thành quả chứa đựng giá trị lớn nhất của cách mạng do Đảng lãnh đạo. Vì vậy, “đối với dân, ta đừng có làm điều gì trái ý dân. Dân muốn gì, ta phải làm nấy”. Cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân. Nhân dân làm chủ là mục đích, đồng thời là động lực của cách mạng. Làm chủ là quyền thiêng liêng của nhân dân không ai có thể xâm phạm. Đảng, Nhà nước phải có trách nhiệm trong việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân, làm sao cho người dân biết hưởng quyền dân chủ, dám nói, dám làm.

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cốt lõi của dân chủ xã hội chủ nghĩa là thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, thể hiện ở bốn mặt gắn bó mật thiết với nhau: Bảo đảm dân quyền, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, nắm vững dân tâm. Bốn mặt đó là thước đo trình độ làm chủ của nhân dân.

Chăm lo dân quyền theo tư tưởng Hồ Chí Minh là bảo đảm quyền làm chủ về mọi mặt, coi trọng quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Gần 70 năm sau bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946 mà quyền công dân được ghi đậm, Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Hiến pháp năm 2013 là một bước tiến dài về bảo đảm quyền con người và quyền công dân.

Chăm lo dân sinh theo tư tưởng Hồ Chí Minh là chú trọng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân; là điều kiện cơ bản để thực hành và hoàn thiện dân chủ. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét thì tự do độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập, khi mà được ăn no, mặc đủ”. Người nói: “Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi”. Trách nhiệm của Đảng và Chính phủ với tư cách đầy tớ của dân là: “Hễ còn có một người Việt Nam bị bóc lột, bị nghèo nàn, thì Đảng vẫn đau thương, cho đó là vì mình chưa hoàn thành nhiệm vụ. Cho nên Đảng vừa lo tính công việc lớn như đổi nền kinh tế và văn hóa lạc hậu của nước ta thành một nền kinh tế và văn hóa tiên tiến, đồng thời lại luôn luôn quan tâm đến những việc nhỏ như tương cà mắm muối cần thiết cho đời sống hằng ngày của nhân dân”.

Qua 32 năm đổi mới, dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng, nhìn một cách tổng quát, đời sống nhân dân có nhiều thay đổi. Tuy nhiên, trên một số mặt, một số lĩnh vực, một bộ phận nhân dân chưa được thụ hưởng đầy đủ, công bằng thành quả của công cuộc đổi mới. Vì vậy, vấn đề đặt ra là “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân” như Người căn dặn trong di chúc.

Chăm lo dân trí theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ những năm hai mươi đến tận cuối đời, Người nhất quán quan điểm “chống nạn thất học và diệt dốt”, “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”, “dốt thì dại, dại thì hèn”, và quan điểm “trồng người”, “đào tạo các em nên những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em”. Một sự nghiệp “trồng người” như vậy sẽ “làm cho non sông Việt Nam trở nên tươi đẹp, dân tộc Việt Nam bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu”. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho dân giàu nước mạnh, thì mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công việc nước nhà, nên phải nâng cao dân trí.

Chăm lo và nâng cao dân trí hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh là việc làm vừa cấp bách vừa lâu dài. Để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phải có một trình độ dân trí ngày càng cao, một đội ngũ nhân tài đông đảo. Nếu con người là tài nguyên quý giá nhất thì trí tuệ con người phải được đăt lên hàng đầu và luôn được bồi đắp. Phát triển kinh tế, đổi mới xã hội, hoàn thiện dân chủ phải bắt đầu từ nguồn lực quý báu là trí tuệ.

Nắm vững dân tình, dân tâm, dân ý theo tư tưởng Hồ Chí Minh là: Hiểu rõ tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của người dân. Quan điểm cách mạng xuyên suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh là “có dân là có tất cả, mất dân là mất hết”. “Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được. Dân chúng không ủng hộ việc gì làm cũng không xong”. “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. “Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”. “Làm đúng ý nguyện của dân thì ắt thành. Làm trái ý nguyện của dân thì ắt bại”. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh coi trọng dân tâm, dân tình, dân ý, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân.

  1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay?

Hiện nay, trước những thách thức, có mặt diễn biến phức tạp, hơn lúc nào hết, các tổ chức đảng và các cấp chính quyền phải tập trung giải quyết những bức xúc, cũng như những nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước phải thuận lòng dân, xuất phát từ lợi ích của dân, nhằm cải thiện, nâng cao đời sống của nhân dân. Tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân bằng cách hướng dẫn, tạo cơ chế để nhân dân phát huy đầy đủ quyền làm chủ, giúp nhân dân thực hiện nghĩa vụ và được hưởng quyền lợi chính đáng.

 

*XÂY  DỰNG  NHÀ  NƯỚC  PHÁP  QUYỀN  của dân do dân và vì dân

Nhà  nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên  minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh  đạo. Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lực lập pháp, hành pháp, tư pháp. Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương.

*Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hoá, gắn kết chặt chẽ và thấm sâu  vào  toàn  bộ  đời  sống  xã  hội,  trở  thành  nền  tảng  tinh  thần  vững  chắc,  sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển

* Tiếp tục khẳng định mục tiêu, nhiệm vụ  của quốc phòng, an ninh là bảo  vệ  vững  chắc  độc  lập,  chủ  quyền,  thống  nhất,  toàn  vẹn  lãnh  thổ  của  Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hoà bình,  ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá  củacác thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng củanhân dân ta.

*Xây dựng Đảng trong sạch , vững mạnh , nâng cao năng lực lãnh đạo , năng lực cầm quyền , tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong , sức chiến đấu của Đảng . Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, coi trọng công tác bvệ Đảng , bv chính trị nội bộ , tăng cường và nâng cao chất lượng công tác tư tưởng , lý luận , công  tác kiểm tra , giám sát và công tác dân vận của Đảng , tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng

* Trong hòa bình hợp tác và hữu nghị: Nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế, tạo môi trường hòa bình và điều kiện thuận lợi để phát triển đất nước.

Giai đoạn hiện nay vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền làm chủ của nhân dân để góp phần xây dựng đất nước, để làm tốt việc này Đảng và Nhà nước ta đã và đang tập trung vào những vấn đề sau: Tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước để thực thi quyền lực của nhân dân.Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm Nhà nước ta thực sự là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo. Nhà nước chăm lo, phục vụ nhân dân, bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của mọi người dân. Nghiên cứu xây dựng, bổ sung các thể chế và cơ chế vận hành cụ thể để bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Tiếp tục phát huy dân chủ, tính công khai, đối thoại trong thảo luận, hoạt động chất vấn tại diễn đàn Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp theo hướng xây dựng nền hành chính thống nhất, thông suốt, trong sạch, vững mạnh, có hiệu lực, hiệu quả; tổ chức 4 tinh gọn và hợp lý. Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính; giảm mạnh và bãi bỏ các loại thủ tục hành chính gây phiền hà cho tổ chức và công dân. Đẩy mạnh xã hội hoá các loại dịch vụ công phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Tiếp tục mở rộng và cụ thể hóa dân chủ trực tiếp cho người dân. Nâng cao ý thức về quyền và nghĩa vụ công dân, năng lực làm chủ, tham gia quản lý xã hội của nhân dân. Có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện trên thực tế quyền làm chủ trực tiếp như thông qua tiếp xúc với đại biểu Quốc hội, đối thoại với lãnh đạo địa phương, thực hiện quyền được trưng cầu dân ý theo luật định, nghiên cứu để nhân dân bầu trực tiếp chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã, huyện. Cần có cơ chế cụ thể, rõ ràng để nhân dân bày tỏ thẳng thắn ý kiến và phản biện đối với dự thảo, dự kiến, dự án, những quyết định lớn của Đảng, Nhà nước. Thực hiện tốt hơn Quy chế dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Phát huy dân chủ, đề cao trách nhiệm công dân, kỷ luật, kỷ cương xã hội; phê phán và nghiêm trị những hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, những hành vi lợi dụng dân chủ để làm mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội; chống tập trung quan liêu, khắc phục dân chủ hình thức. Xây dựng con người, phát triển văn hóa, thực hiện quốc sách hàng đầu với giáo dục – đào tạo và khoa học – công nghệ, nhất là thực hiện đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân nhằm chấn hưng đạo đức dân tộc, làm cho gia đình thực sự là những tế bào lành mạnh của xã hội, tạo ra đột phá về nguồn nhân lực chất lượng cao không thể không tính đến vai trò động lực của dân chủ.

Thực hành dân chủ là thực hành trong các mối quan hệ. Thực hành dân chủ rộng rãi, nhất là dân chủ trong Đảng, là làm cho động lực dân chủ, văn hóa dân chủ phát huy tác dụng của nó trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong các mối quan hệ con người để phát triển dân chủ thực chất, khắc phục dân chủ hình thức, chống lại những vi phạm dân chủ và quyền làm chủ của người dân, chống quan liêu, lãng phí, tham ô, tham nhũng có hiệu quả rõ rệt nhất. Đây cũng là đường hướng chủ đạo thuộc về tầm nhìn và hành động của Đảng theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII về dân chủ ở nước ta. Một cách thiết thực và cụ thể, mọi nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân đều hướng vào phát triển sức dân, bồi dưỡng sức dân, tiết kiệm sức dân, chăm lo dân sinh, nâng cao dân trí, bảo đảm dân quyền để phát huy tốt nhất sức mạnh của dân chủ trong công cuộc đổi mới vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

III. Liên hệ bản thân?

Vấn đề 3: Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ – công tác cán bộ? Những đòi hỏi của Hồ Chí Minh về người cán bộ? Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay? Liên hệ bản thân?

Trả lời:

  1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ – công tác cán bộ?

Tư tưởng về cán bộ và công tác cán bộ là một bộ phận cấu thành quan trọng trong hệ thống tư tưởng chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt coi trọng vai trò của đội ngũ cán bộ, luôn đặt công tác cán bộ lên vị trí hàng đầu trong các công tác của Đảng và Nhà nước. tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn bởi trong đó đã kết tinh tinh hoa của triết học chính trị phương Đông và phương Tây, của triết học chính trị Mác – Lênin, đặc biệt là sự đúc kết từ chính quá trình Người phát hiện, đào tạo, sử dụng đội ngũ cán bộ trong cách mạng Việt Nam.

       Hồ Chí Minh xác định “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.269). Như vậy, cán bộ là cầu nói giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, là người truyền đạt và tổ chức nhân dân thực thi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhầ nước, đồng thời nắm bắt và phản hồi thông tin từ phía nhân dân để Đảng và Nhà nước có căn cứ hoạch định, điều chỉnh chủ trương, đường lối, chính sách. Vai trò của đội ngũ cán bộ là vô cùng quan trọng trong toàn bộ sự vận hành của một xã hội. Vì vậy, Hồ Chí Minh khẳng định “cán bộ là cái gốc của mọi công việc” (Sđd, tr.269), và “huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng” (Sđd, tr.269). Để làm tốt vai trò của cầu nối này, có hai yêu cầu đối với cán bộ là thông hiểu đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước và biết lắng nghe ý kiến của dân. Đó cũng chính là hai tố chất không thể thiếu và cán bộ phải rèn luyện mới có.

       Để hoàn thành tốt vai trò của mình, đội ngũ cán bộ cần có đầy đủ những phẩm chất cần thiết. Phẩm chất của đội ngũ cán bộ được Hồ Chí Minh được đề cập đến trên hai phía: chính diện và phản diện.

       Từ phía chính diện, Người đã chỉ rõ những phẩm chất cần có của đội ngũ cán bộ:

       Thứ nhất, cán bộ là những người có đạo đức cách mạng, là Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm. Nhân là “thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí và đồng bào”; Nghĩa là “ngay thẳng, không có tư tâm, không làm việc bậy, không có việc gì phải giấu Đảng”; Trí là “không có việc tư túi nó làm mù quáng, cho nên đầu óc trong sạch, sáng suốt. Dễ hiểu lý luận. Dễ tìm phương hướng. Biết xem người. Biết xét việc”; Dũng là “dũng cảm, gan góc, làm việc phải có gan làm. Thấy khuyết điểm có gan sửa chữa. Cực khổ khó khăn, có gan chịu đựng. Có gan chống lại sự vinh hoa, phú quý khong chính đáng. Nếu cần, thì có gan hi sinh cả tính mệnh cho Đảng, cho Tổ quốc, không bao giờ rụt rè, nhút nhát”; Liêm là “không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hóa. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ” (Sđd, tr.252).

       Đạo đức cách mạng là đạo đức của những người đáu tranh quên mình vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc,của loài người. Đó là phẩm chất quan trọng hàng đầu của cán bộ, đảng viên trong chế độ xã hội mới. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, đao đức cách mạng được hình thành từ chính thực tiên đấu tranh cách mạng, từ quá trình tự tu dưỡng, rèn luyện bền bỉ của cán bộ, đảng viên, đồng thời là cội nguồn sức mạnh giúp cán bộ, đảng viên vượt qua muôn ngàu khó khăn, thử thách, hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó. Đạo đức cách mạng làm nên sức mạnh. Đó là một tư tưởng quan trọng của Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ.

       Thứ hai, cán bộ là những người “trung thành và hăng hái trong công việc, trong lúc đấu tranh” (Sđd, tr.275); có tinh thần trách nhiệm trước Đảng, Nhà nước và nhân dân.

       Thứ ba, cán bộ là người có đủ năng lực đảm đương công việc dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. Để có đủ năng lực đảm đương công việc, trước hết phải có ý thức trách nhiệm. Người có ý thức trách nhiệm là người dám nghĩ,dám làm, dám nói, dám phê bình, dám thừa nhận và sửa chữa khuyết điểm, v.v.. Người có ý thức trách nhiệm còn là người không sợ khó khăn, không sợ thất bại, không sợ phê bình, không sợ hi sinh, v.v.. Đạo đức cách mạng chính là gốc rễ tạo nên ý thức trách nhiệm của cán bộ. Để có đủ năng lực đảm đương công việc, cán bộ cần phải có sáng kiến. Theo Hồ Chí Minh: “bất kì việc to việc nhỏ, hễ thêm điều lợi, trừ điều hại cho quần chúng, giúp quần chúng giải quyết vấn đề khó khăn, tăng kết quả của việc làm, tăng sức sản suất của xã hội, đánh đổ sức áp bức của quân thù,đó là điều sáng kiến” (Sđd, tr.244). Bất kỳ ai, nếu có quyết tâm làm lợi ích cho nhân dân, óc chịu khó nghĩ,tay chịu khó làm, thì nhất định có sáng kiến, nhất định làm được những việc có lợi ích cho nhân dân.

       Một nhân tố khác cũng tác động rất mạnh đến năng lực công tác của cán bộ, đó là trình độ nhận thức, lý luận. Hồ Chí Minh rất coi trọng công tác đào tạo, huấn luyện để nâng cao trình độ nhận thức, lý luận cho cán bộ, đảng viên. Người đã nêu lên 3 điều tệ hại liên quan đến trình độ nhận thức, lý luận của cán bộ là kém lý luận, khinh lý luận và lý luận suông. Đây đều là những biểu hiện năng lực công tác kém của cán bộ, là những nguyên nhân đưa tới thất bại trong công tác. Để khắc phục những ddiiefu tệ hại trên thì cần phải tuân thủ nguyên tắc “thống nhất giữa lý luận và thực tế”. Nội dung của nguyên tắc ấy là: “Lý luận cốt để áp dụng vào thực tế. Lý luận mà không áp dụng vào thực tế là lý luận suông”

       Thứ tư, cán bộ là những người luôn luôn giữ đúng kỷ luật, tôn trọng và nghiêm chỉnh thực thi pháp luật. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, kỷ luật làm nên sức mạnh của tổ chức. Tuy nhiên, vai trò của kỷ luật chỉ được phát huy khi mỗi thành viên tự giác chấp hành kỷ luật. Nếu cán bộ, đảng viên không tự giác tuân thủ kỷ luật và pháp luật, thì dug kỷ luật và pháp luật có nghiêm minh đến mấy, những “mệnh lệnh bên ngoài” ấy cũng không thể chuyển hóa thành những “mệnh lệnh bên trong”, không thể tạo nên động lưc thúc đẩy cán bộ, đảng viên tận tụy vì công việc.

       Từ phía phản diện, Hồ Chí Minh đã chỉ ra những căn bệnh mà cán bộ cần phải đề phòng, khắc phục:

       Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Hồ Chí Minh đã nên lên nhiều căn bệnh có thể xuất hiện trong đội ngũ cán bộ như: bệnh chủ quan, bệnh hẹp hòi, bệnh ba hoa, bệnh xa quần chúng, bệnh hình thức, bệnh nể nang, bệnh tham lam, bệnh lười biếng, bệnh kiêu ngạo. bệnh hiếu danh, óc địa phương, óc lãnh tụ, bệnh tị nạnh, bệnh xu nịnh, v.v.. Hồ Chí Minh gọi chung đó là chủ nghĩa cá nhân.

       Về nguyên nhân của tật bệnh, Hồ Chí Minh cho rằng, Đảng và Nhầ nước ta, cán bộ và đảng viên ta xuất thân từ trong xã hội mà ra, cho nên khó tránh khỏi một bộ phận bị cái xấu trong xã hội nhiễm vào. Điều quan trọng là phải quyết tâm nhận thức và sửa chữa. Phương thuốc hay nhất, theo Hồ Chí Minh, là phê bình và tự phê bình (Sđd, tr.267). Tự phê bình và phê bình không chỉ là vạch rõ khuyết điểm mà còn là nêu lên ưu điểm của mình và đồng chí mình, thông qua học hỏi lẫn nhau, phát huy ưu điểm, từng bước khắc phục khuyết điểm. Đấu tranh với cái phản diện là con đường tốt nhất để hình thành nên cái chính diện. Tu dưỡng, rèn luyện cho cái chính diện nảy nở, phát triển, đó là cách tốt nhất để đấu tranh, đẩy lùi cái phản diện. Đó là biện chứng trong sự trưởng thành của mỗi con người, mỗi tổ chức. Biện chứng khách quan ấy đã được Hồ Chí Minh nhận thức và thể hiện trong quan điểm của Người về phẩm chất của cán bộ.

       Về công tác cán bộ, Hồ Chí Minh nêu lên những nội dung cơ bản là biết cán bộ, dùng cán bộ, cất nhắc cán bộ, thương yêu cán bộ và phê bình cán bộ.

       “Biết cán bộ” tức là đánh giá đúng phẩm chất và năng lực của cán bộ. Công tác đánh giá cán bộ có vai trò rất quan trọng. Đánh giá đúng cán bộ là căn cứ để sử dụng cán bộ có hiệu quả. Đánh giá cán bộ còn là căn cứ cho công tác đào tạo, huấn luyện cán bộ. Đánh giá đúng cán bộ không chỉ nhằm phát hiện cái hay của họ để khuyến khích, phát huy, mà còn nhằm thấy cái dở của họ để tìm cách giúp đỡ, khắc phục. Hồ Chí Minh nói: “Người ở đời, ai cũng có chỗ tốt và chỗ xấu. Ta phải khéo nâng cao chỗ tốt, khéo sửa chữa chỗ xấu của họ” (Sđd, tr.279). Để đánh giá đúng cán bộ, Hồ Chí Minh yêu cầu phải có quan điểm biện chứng. Quan điểm biện chứng nhằm khẳng định mọi sự vật, hiện tượng đều không ngừng biến đổi. Cán bộ cũng như vậy, “có người khi trước theo cách mạng mà nay phản cách mạng. Có người khi trước không cách mạng mà nay lại tham gia cách mạng. Thậm chí có người nay đang theo cách mạng, nhưng sau này có thể phản cách mạng”; “Quá khứ, hiện tại và tương lai của mọi người không phải luôn giống nhau” (Sđd, tr.278). Vì thế, khi xem xét, đánh giá cán bộ, “quyết không nên chấp nhất” mà phải có cái nhìn toàn diện. Việc đánh giá cán bộ không thể chỉ căn cứ vào những biểu hiện bên ngoài của họ, mà phải đi sâu tìm hiểu bản chất của họ; không thể chỉ dựa vào một việc làm của họ, mà phải tìm hiểu tất cả các công việc mà họ thực hiện; không thể chỉ xem xét cán bộ trong một thời điểm, mà phải thấy rõ lịch sử của họ. Có cái nhìn toàn diện như vậy, ta mới có thể đánh giá cán bộ một cách đúng đắn, khách quan.

       Hồ Chí Minh sớm thấy rõ, có không ít tật bệnh đã xuất hiện khi tiến hành đánh giá cán bộ, chẳng hạn bệnh ưa người ta nịnh mình, bệnh đem một cái khuân khổ chật hẹp, nhất định mà lắp vào tất cả mọi người khác nhau, v.v.. Đây đều là những căn bệnh xuất hiện trong những người làm công tác cán bộ. Vì thế, để công tác đánh giá cán bộ được đúng đắn và khách quan, trước hết những người làm công tác cán bộ phải thường xuyên tự đánh giá lại mình, tự biết sự phải trái của mình, từ đó tìm cách khắc phục những sai lầm, khuyết điểm của chính mình. Mình càng trong sang, “càng ít khuyết điểm thì cách xem xét cán bộ càng đúng” (Sđd, tr.278). Biết mình là khó, song không biết mình thì không thể biết người. “Tri kỉ” để “tri nhân” là một quan điểm cơ bản trong triết hộc chính trị, văn hóa chính trị phương Đông truyền thống, đã kết tinh trong tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ trong thời đại mới.

      “Dùng cán bộ” tức là dụng nhân, tức là sử dụng cán bộ. Yêu cầu của dùng cán bộ rất đơn giản là “tùy tài mà dung người” – giao cho cán bộ những công việc phù hợp với năng lực của họ. Biết tùy tài mà dung người thì sẽ phát huy được tài, do đó mà công việc thành công. Biết tùy tài mà dung người không những tránh lãng phí người tài, mà còn có tác dụng tích cực, làm cho người tài ngày càng nhiều thêm, bởi dung người đúng năng lực, sở trường sẽ phát huy được cái hay của mỗi người, do đó mà cái dở ngày càng bị đẩy lùi, tài năng của cán bộ ngày càng được rèn luyện, phát triển. Hồ Chí Minh viết: “Năng lực của người không phải hoàn toàn do tự nhiên mà có, mà một phần lớn do công tác, do tập luyện mà có. Lãnh đạo khéo, tài nhỏ có thể hóa tài to. Lãnh đạo không khéo, tài to cũng hóa ra tài nhỏ” (Sđd, tr.280).

      Yêu cầu của dùng cán bộ tuy rất đơn giản, song thực tế có không ít trường hợp việc sử dụng cán bộ bị chi phối bởi những căn bệnh như ham dung người bà con, than quen, ham dung người nịnh hót, v.v.. Những căn bệnh ấy không chỉ gây hại cho Đảng, Nhà nước, mà còn gây hại cho chính những người không có năng lực mà lại được sử dụng, bởi khi được dung túng, cái xấu trong họ sẽ càng có điều kiện phát triển, làm cho cái tốt trong họ khó có điều kiện phát huy.

       Hồ Chí Minh yêu cầu những người làm công tác cán bộ phải có lòng “độ lượng vĩ đại” thì mới có thể đánh giá và sử dụng cán bộ một cách chí công vô tư; phải có “tinh thần rộng rãi” thì mới có thể sử dụng những người mình không ưa; phải có “tính chị khó dạy bảo” thì mới có thể nâng đỡ những đồng chí còn kém, giúp cho họ tiến bộ; phải “sang suốt” thì mới khỏi bị bọn vu vơ bao vây, mà cách xa cán bộ tốt; phải có “thái độ vui vẻ, thân mật” thì các đồng chí mới vui lòng gần gũi mình; phải xác định rõ mục đích của sử dụng cán bộ là “để thực hành đầy đủ chính sách của Đảng và Chính phủ” (Sđd, tr.279).

       Đã ‘tùy tài mà dung người” còn phải tạo điều kiện để cán bộ phát huy năng lực của họ. Để có được điều đó, Hồ Chí Minh cho rằng, trước hết phải tạo môi trường dân chủ để “cán bộ cả gan nói, cả gan đề ra ý kiến” (Sđd, tr.280). Người lãnh đạo không được tự cao tự đại, mà phải nghe, phải hỏi ý kiến cấp dưới. Môi trường dân chủ sẽ tạo nên động lực tích cực thúc đẩy cán bộ có sáng kiến và hăng hái làm việc. Bên cạnh đó, phải mạnh dạn trao quyền, giao việc cho cán bộ. Trước khi giao việc cho cán bộ, cần hướng dẫn tỷ mỷ những vấn đề cơ bản, rồi tạo điều kiện để cán bộ tích cực, chủ động thực hiện công việc. Khi đã trao quyền, giao việc, phải có niềm tin đối với cán bộ. Tin tưởng và giao việc vừa là một cách đào tạo cán bộ, vừa là cách tạo động lực hành động cho cán bộ.

       Về “cất nhắc cán bộ”, Hồ Chí Minh cho rằng, việc “Cất nhắc cán bộ, phải vì công tác, tài năng, vì cổ động cho đồng chí khác thêm hăng hái. Như thế, công việc nhất đinh chạy” (Sđd, tr.281). Như vậy, việc cất nhắc cán bộ phải xuất phát từ hiệu quả công tác thực tế của cán bộ, và phải có tác dụng khuyến khích các cán bộ khác vươn lên.

       Hồ Chí Minh lưu ý phải có cách cất nhắc cán bộ cho đúng. Người viết: Cât nhắc cán bộ, không nên làm như “giã gạo” (Sđd, tr.282): Trước khi cất nhắc thì không xem xét kỹ. Khi đã cất nhắc thì không giúp đỡ. Khi cấn bộ mắc sai lầm thì hạ cấp, chờ lúc họ làm khá, lại cất nhắc lên. “Một cán bộ bị nhắc lên hạ xuống như thế ba lần là hỏng cả đời” (Sđd, tr.282). Theo Hồ Chí Minh cách cất nhắc cán bộ cũng như cách đánh giá hiệu quả công tác của cán bộ có tác động trực tiếp đến “lòng tự tin, tự trọng” của cán bộ. Đối với mỗi người, lòng tự tin, tự trọng có vai trò rất quan trọng. Vì thế, người lãnh đạo phải biết “tôn trọng”, “vun trồng” lòng tự tin, tự trọng của cán bộ. Trong công tác cất nhắc cán bộ, thái độ đó thể hiện ở việc đánh giá đúng cán bộ, giao công việc phù hợp với phẩm chất và năng lực cán bộ, thường xuyên quan tâm, động viên, giúp đỡ và kịp thời nhắc nhở, uốn nắn sai lầm và khuyết điểm của cán bộ. Không nên để đến khi sai lầm và khuyết điểm đã trở nên nặng nề mới đem ra “chỉnh” một lần. Như thế là “đập” cán bộ. Cán bộ bị “đập”, mất đi sự tự tin, thì người hăng hái cũng hóa thành nản chí, từ nản chí mà trở nên vô dụng.

       Về “Yêu thương cán bộ”, Hồ Chí Minh nêu quan điểm: Đảng “phải thương yêu cán bộ”. Đây là quan điểm thể hiện tính nhân văn sâu sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ . Tính nhân văn ấy được hình thành từ chính thực tế tiến hành công tác cán bộ trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng. Người chỉ rõ: “ Không phải vài ba tháng, hoặc vài ba năm, mà đào tạo được một người cán bộ tốt. Nhưng cần phải công tác, tranh đấu, huấn luyện lâu năm mới được. Trái lại, trong lúc tranh đấu, rất dễ mất một người cán bộ” (Sđd, Tr.282 ) .

       Nhưng yêu thương cán bộ không phải là vỗ về, nuông chiều, phó mặc. Theo Hồ Chí Minh, thương yêu cán bộ “là giúp họ học tập thêm, tiến bộ thêm. Là giúp họ giải quyết những vấn đề khó khăn sinh hoạt, ngày thường thì điều kiện dễ chịu, khi đau ốm được chăm sóc, gia đình họ khỏi khốn quẫn, v..v.. (Sđd, Tr.283 ) .Thương yêu cán bộ còn là luôn luôn chú ý đến công tác của họ. Hễ thấy có khuyết điểm thì giúp họ sửa chữa ngay. Hễ thấy ưu điểm thì động viên, khuyến khích họ.

       “Phê bình cán bộ” tức là thái độ ứng xử đối với cán bộ khi họ có sai lầm, khuyết điểm. Quan điểm nền tảng của Hồ Chí Minh ở đây là “ Người đời ai cũng có khuyết điểm. Có làm việc thì có sai lầm” (Sđd, Tr.283). Chính vì thế, người cán bộ không có gì phải sợ sai lầm và khuyết điểm. Vấn đề là ở chỗ họ có nhận ra và cố gắng sửa chữa sai lầm, khuyết điểm không, và người lãnh đạo có tìm ra cách giúp cán bộ sửa chữa sai lầm, khuyết điểm không.

       Đối với cán bộ có sai lầm, khuyết điểm, Hồ Chí Minh so sánh họ với những người có bệnh trong mình. Muốn khỏi bệnh thì phải có gan nói ra bệnh của mình với bác sỹ và cố gắng chữa bệnh cho kỳ hết. Một người cán bộ chân chính cách mạng không phải là người không bao giờ có sai lầm, khuyết điểm, mà là những người có khả năng nhận thức được sai lầm, khuyết điểm của mình, tìm ra nguyên nhân và cách khắc phục những sai lầm, khuyết điểm ấy.

       Đối với người lãnh đạo, Hồ Chí Minh yêu cầu phải xác định rõ : “ Trừ những người cố ý phá hoại, ngoài ra không ai cố ý sai lầm, sai lầm là vì không hiểu , không biết” (Sđd, Tr.283). Vì vậy, đối với cán bộ mắc sai lầm, phải tìm cách để họ tự nhận rõ sai lầm đó, làm cho họ vui lòng tự nguyện sửa đổi. Tuyệt đối tránh thái độ qui chụp, công kích.

       Tất nhiên, vì sai lầm cũng có nhiều loại, nhiều cấp độ, cho nên Hồ Chí Minh cho rằng phải sử dụng một cách hợp lý các giải thích thuyết phục, cảm hóa, dạy bảo và cách xử phạt : “Hoàn toàn không dùng xử phạt là không đúng. Mà chút gì cũng dung đến xử phạt cũng không đúng” (Sđd, Tr.284).

       Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ ta thây sự thống nhất giữa tính khoa học, tính nghệ thuật và vượt lên trên tất cả là tính nhân văn sâu sắc. Công tác cán bộ là việc làm hệ trọng và tinh tế, vì thế phải được suy tư và thực hiện trên cơ sở tôn trọng nhân cách con người và theo hướng khơi dậy, phát huy mặt tích cực, mặt thiện để đẩy lùi mặt tiêu cực, mặt ác trong mỗi con người. Công tác cán bộ trong chế độ xã hội của chúng ta dựa trên và thể hiện lòng yêu thương và quí trọng cán bộ sâu sắc. Chính quan điểm đó làm nên giá trị và sức sống của tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ. Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ thì trước hết cần phải tiếp thu giá trị nhân văn sâu sắc ấy

  1. Những đòi hỏi của Hồ Chí Minh về người cán bộ?

Trên cơ sở quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vị trí, vai trò của người cán bộ, đồng thời cũng đòi hỏi ở người cán bộ phải có những tiêu chuẩn nhất định, phải tự giác rèn luyện mình về mọi mặt, không ngừng nâng cao phẩm chất, năng lực để xứng đáng với vị trí, vai trò của mình. Tư tưởng Hồ Chí Minh về những tiêu chuẩn ấy mang tính toàn diện và đầy đủ, gồm các tiêu chuẩn về đạo đức, phẩm chất năng lực, về trình độ lý luận, về phong cách và phương pháp của người cán bộ.

     Thứ nhất, người cán bộ phải có tư cách đạo đức cách mạng

     Người đòi hỏi cán bộ phải giữ được đạo đức cách mạng, đó mới là người cán bộ chân chính. “Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”1.

     Tiêu chí đạo đức người cán bộ cách mạng được Hồ Chí Minh chỉ ra hết sức cụ thể, đó là mỗi người cán bộ phải hội đủ các phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Hồ Chí Minh còn chỉ ra rằng, đạo đức cách mạng đòi hỏi người cán bộ phải trung thành với Đảng, trung thành với Tổ quốc, đồng thời đặt mình trong mối quan hệ với chính mình, với đồng đội, với công việc, với nhân dân, với đoàn thể một cách hài hòa.

     Bên cạnh việc chỉ ra những tiêu chí đặc điểm của người cán bộ cách mạng, Hồ Chí Minh còn chỉ ra những căn bệnh mà cán bộ phải phòng tránh, sửa chữa. Đó là óc địa phương chủ nghĩa, bè phái, hẹp hòi, chuộng hình thức, lối làm việc bàn giấy, vô kỷ luật, tham lam, lười biếng, kiêu ngạo, lãng phí.

Hồ Chí Minh cho rằng vấn đề là phải tự bản thân mỗi người cán bộ rèn luyện thường xuyên, hằng ngày. “Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hằng ngày phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”2.

     Thứ hai, người cán bộ phải có năng lực tổ chức thực tiễn

     Năng lực đầu tiên mà Hồ Chí Minh đòi hỏi ở người cán bộ cách mạng là năng lực lãnh đạo, quản lý, là khả năng tổ chức động viên quần chúng thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước.

Người cán bộ có tài là người có trình độ năng lực, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, giàu về kinh nghiệm, có nhiều sáng kiến. Muốn trở thành người có tài, Hồ Chí Minh yêu cầu người cán bộ cách mạng không những phải thường xuyên nâng cao trình độ mà phải biết tự rèn luyện, học hỏi đúc kết từ thực tiễn hoạt động cách mạng.

     Thứ ba, người cán bộ phải có trình độ lý luận

     Để lao động đạt hiệu quả cao đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải có tinh thần học tập không ngừng. Vì vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh “mỗi cán bộ, đảng viên phải học lý luận, phải đem lý luận áp dụng vào công việc thực tế. Phải chữa bệnh kém lý luận, khinh lý luận và lý luận suông”3, phải tự nguyện, tự giác, xem công tác học tập cũng là nhiệm vụ mà người cán bộ cách mạng phải hoàn thành cho được, do đó mà tích cực chủ động hoàn thành kế hoạch học tập, nêu cao tinh thần chịu khó, cố gắng không lùi bước trước bất kỳ khó khăn nào trong việc học tập.

Theo Hồ Chí Minh, người cán bộ nâng cao lý luận không có nghĩa là thuộc lòng hay mô tả lý luận, mà phải khái quát, tìm ra quy luật của vấn đề, làm phong phú lý luận bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn. Đồng thời cũng đòi hỏi cán bộ tự giác xem học tập lý luận là một nhiệm vụ phải hoàn thành.

     Thứ tư, phong cách của người cán bộ cách mạng

     Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, phong cách của người cán bộ được thể hiện ở các yêu cầu như  tác phong quần chúng, dân chủ, thẳng thắn, tính quyết đoán và tinh thần trách nhiệm cao, sâu sát, thận trọng, nhất quán giữa lời nói và việc làm, giữa lý luận và thực tiễn, thường xuyên nghiêm túc tự phê bình và phê bình.

  III. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay?

  Kế thừa những tư tưởng của Bác về tiêu chuẩn của người cán bộ, trong tình hình hiện nay, Đảng ta quyết tâm xây dựng đội ngũ cán bộ vừa hồng, vừa chuyên, có năng lực công tác, có phẩm chất đạo đức tốt, được dân tin yêu… Văn kiện Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ XII của Đảng kế thừa sáng tạo tư tưởng của Bác trong tình hình mới hiện nay về tiêu chuẩn cán bộ.

     Tiêu chuẩn tư cách đạo đức cách mạng của cán bộ được thể hiện rõ ở nội dung: Tăng cường rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng4; Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí

     Kế thừa tư tưởng của Bác về tiêu chuẩn tư cách năng lực tổ chức thực tiễn của cán bộ, Văn kiện Đại hội đã chỉ ra việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới như sau:  đó là Chú trọng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức

    Trong tình hình hiện nay, tiêu chí trình độ lý luận của cán bộ cần phải được nâng lên. Vì vậy, Văn kiện Đảng chỉ ra cần: Đổi mới công tác tư tưởng, lý luận

      Đặc biệt, Đại hội nhấn mạnh: Đổi mới mạnh mẽ công tác giáo dục lý luận chính trị, học tập nghị quyết của Đảng. Thực hiện nền nếp việc bồi dưỡng lý luận, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, đặc biệt là cấp Trung ương. Tiếp tục đổi mới hệ thống chương trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị theo hướng nâng cao chất lượng, chú trọng tính hiệu quả và phù hợp với từng đối tượng.

     Tiêu chuẩn phong cách người cán bộ cách mạng được Đại hội nêu ra rất cụ thể trong vấn đề: Xây dựng và thực hiện tốt các quy định để phát huy vai trò gương mẫu trong rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách, tác phong, lề lối công tác của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo các cấp, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị. Thực hiện nghiêm cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát của tổ chức đảng, giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội và của nhân dân về phẩm chất, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên

IV. Liên hệ bản thân?

By ThanhVL

Leave a Reply