Tải tài liệu môn học tham khảo:

  1. Bài giảng môn học
  2. Đề cương thảo luận chi tiết lần 1
  3. Đề cương thảo luận chi tiết lần 2

ĐỀ CƯƠNG THẢO LUẬN NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

VỀ NGHIỆP VỤ CÔNG TÁC ĐẢNG Ở CƠ SỞ

Câu 1: Quan điểm của Mác – Lênin, Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản? Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay ? Liên hệ bản thân ?

1/ Những vấn đề cơ bản về Đảng và xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam:

– Bản chất của Đảng

– Mục đích của Đảng

– Hệ tư tưởng của Đảng

– Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng

– Vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị-xã hội

– Quan điểm quốc tế của Đảng

– Công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng

2/ Những điểm sáng tạo về Đảng và xây dựng Đảng của Đảng ta:

2.1/ Bản chất của Đảng:

Quan điểm của Mác-Lênin, Đảng là đội tiên phong của GCCN, mang bản chất của GCCN. Bản chất ấy là sự kết hợp những tinh hoa của bản chất GCCN với chủ nghĩa xã hội khoa học. Chủ Nghĩa Mác-Lênin về ĐCS đã chỉ ra quy luật ra đời, tồn tại, phát triển của Đảng là chủ nghĩa xã hội khoa học kết hợp với phong trào công nhân.

Quan điểm của Đảng ta, Đảng là đội tiên phong của GCCN, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Điểm sáng tạo, ĐCS VN là đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, bởi vì:

– VN là nước thuộc địa nửa phong kiến, kinh tế nông nghiệp lạc hậu, giai cấp công nhân còn nhỏ bé, phong trào công nhân đã phát triển, phong trào yêu nước rất mạnh mẽ, Đồng chí Nguyễn Ái Quốc thấy rất rõ: để thành lập đảng phải làm cho phong trào công nhân và phong trào yêu nước chuyển biến về chất và phải được chủ nghĩa M-L soi sáng, các yếu tố đó phải được kết hợp với nhau. Sự ra đời của Đảng Cộng sản VN vào ngày 3/2/1930 là sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phòng trào công nhân và phòng trào yêu nước.

– ĐCS VN là Đảng của GCCN đồng thời là Đảng của dân tộc VN: về lập trường, quan điểm, hệ tư tưởng của Đảng là của GCCN; về lợi ích thì Đảng đại biểu trung thành lợi ích của GCCN, nhân dân lao động và của cả dân tộc.

– Nhiệm vụ của ĐCS VN là giải phóng GCCN và giải phóng dân tộc.

– Lực lượng của ĐCS VN là GCCN và nhân dân lao động.

– Xây dựng củng cố khối đại đoàn kết toàn dân.

– ĐCS VN mang bản chất của GCCN.

2.2/ Mục đích của Đảng:

Quan điểm của Mác-Lênin là lãnh đạo công nhân giải phóng giai cấp, lật đổ xã hội tư bản, xây dựng xã hội cộng sản, một chế độ xã hội không có người bóc lột người.

Quan điểm của ĐCS VN là lãnh đạo GCCN và NDLĐ đấu tranh giải phóng dân tộc trước rồi giải phóng giai cấp, xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.

2.3/ Hệ tư tưởng của Đảng:

Mác lấy CNXH khoa học làm nền tảng chỉ ra con đường đấu tranh giai cấp vô sản giành chính quyền, xây dựng thành công CNXH và CNCS.

Lênin lấy chủ nghĩa Mác làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động.

Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế thời đại và thực tiễn của đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.

2.4/ Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng

Mác – Ăngghen, đã đưa ra các nguyên tắc cơ bản về xây dựng tổ chức và hoạt động của ĐCS theo nguyên tắc tập trung dân chủ, mặc dù hai ông chưa dùng thuật ngữ “tập trung dân chủ” nhưng những nội dung chủ yếu của nguyên tắc này đã được thể hiện trong Điều lệ của Liên đoàn những người cộng sản.

Lênin, Đảng phải thực hiện tốt dân chủ để phát huy cao độ trí tuệ, tính sáng tạo của mỗi đảng viên trong hoạt động, đồng thời Đảng phải hoạt động một cách tập trung thống nhất. Vì thế, Đảng phải xây dựng tổ chức, sinh hoạt và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ để thống nhất ý trí và hành động. Xa rời nguyên tắc này Đảng sẽ giảm sức mạnh và không tránh khỏi tan rã.

Đảng ta đã vận dụng các nguyên lý của chủ nghĩa M-L về ĐCS vào xây dựng ĐCS VN. Đảng CSVN là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động; lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản; thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh; đồng thời thực hiện các nguyên tắc: tự phê bình và phê bình, đoàn kết, gắn bó mật thiết với nhân dân, Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

2.5/ Vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị-xã hội

Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân; dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; đoàn kết và lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp cách mạng. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng lãnh đạo, tôn trọng và phát huy vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội.

2.6/ Quan điểm quốc tế của Đảng

Đảng kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân, góp phần tích cực vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới.

2.7/ Công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng

Đảng CSVN phải thường xuyên chăm lo xây dựng và chỉnh đốn Đảng: Theo HCM “xây dựng” và “chỉnh đốn” Đảng là hai vấn đề quan hệ biện chứng với nhau. Phải trên cơ sở xây dựng Đảng mà chỉnh đốn Đảng; đồng thời, “chỉnh đốn” Đảng đều nhằm làm cho Đảng ngày càng vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ của từng giai đoạn cách mạng, đưa cách mạng nước ta đến thắng lợi.

Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo học thuyết M-L vào xây dựng đảng ta vững mạnh về chính trị, thể hiện ở việc xác định cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn của đảng, xây dựng Đảng vững mạnh về tư tưởng và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của đảng.

Trong công cuộc đổi mới hiện nay, Đảng ta luôn xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là nghiệm vụ then chốt, phát triển văn hóa nền tảng tinh thần của xã hội, song suy đến cùng xây dựng Đảng có vai trò quyết định nhất. Học thuyết M-L về Đảng Cộng sản vẫn là cẩm nang có giá trị nhất, là ngọc đuốc soi đường cho Đảng và nhân dân Việt Nam tiến hành công tác xây dựng Đảng để Đảng có đủ năng lực lãnh đạo thắng lợi công cuộc đổi mới, đưa đất nước Việt Nam đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.

3/ Kết luận:

          Sự nghiệp đổi mới của nước ta đến nay đạt được những thành tựu hết sức to lớn và có ý nghĩa lịch sử cũng chính nhờ chúng ta nhận thức đúng đắn bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và vận dụng một cách sáng tạo trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Thực tiễn 30 năm thực hiện chính sách đổi mới vừa qua cho thấy, công cuộc xây dựng, phát triển đất nước ngày càng đi vào chiều sâu thì chúng ta càng phải đối diện với những vấn đề khó khăn, phức tạp mới, lại đặt ra cho đất nước những cơ hội lớn và thách thức mới. Tất cả đều đòi hỏi chúng ta phải nhận thức lại cho đúng, vận dụng sáng tạo, bổ sung và phát triển lý luận Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho phù hợp với bối cảnh mới của thế giới và các điều kiện cụ thể trong nước hiện nay.

          Kiên định và vận dụng sáng tạo bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã ngày càng làm sáng tỏ con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta thời kỳ đổi mới. Đó là con đường phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền tảng kinh tế hiện đại.

          Từ khi ra đời cho đến nay, nhờ nắm vững và vận dụng sáng tạo bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh mà Đảng ta đã dẫn dắt cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Thực tiễn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã minh chứng bản chất khoa học, cách mạng và nhân văn cao cả, là nguồn gốc sức mạnh của chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Công cuộc đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã chứng tỏ sức sống mãnh liệt của mình và ngày càng thu được những thành tựu to lớn. Kiên định với bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cách mạng Việt Nam nhất định Đảng ta sẽ lãnh đạo nhân dân ta xây dựng thành công một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

 Điểm sáng tạo trong Đại Hội Đảng XI:

          Đại hội lần thứ XI, trong báo cáo chính trị, nêu: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực thuộc về nhân dân” và đã nhấn mạnh: “Có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện thực tế quyền làm chủ trực tiếp”; tiếp đó, trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, một lần nữa Đại hội khẳng định: “Nâng cao năng lực và tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ, nhất là dân chủ trực tiếp để phát huy mạnh mẽ mọi khả năng sáng tạo và bảo đảm đồng thuận cao trong xã hội, tạo động lực phát triển đất nước”3.      Vậy là, điểm nhấn mới của tiến trình dân chủ hóa ở nước ta trong nhiệm kỳ thứ XI của Đảng là xúc tiến mạnh mẽ việc hiện thực hóa quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân. Sự xác định điểm nhấn đó ở thời đoạn hiện nay phản ánh đúng nhu cầu thực tiễn và có căn cứ lý luận của nó.

          Nhu cầu thực tiễn, đó là:

          – Thứ nhất, cho đến nay sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa về chiều rộng và chiều sâu ở mức độ đạt được, đã tạo nên dấu ấn đậm nét đổi mới nền tảng kinh tế – xã hội của nước ta, làm nẩy sinh những xung lực mới từ lực lượng sản xuất được giải phóng và từ quan hệ sản xuất được tháo gỡ khỏi những rào cản bắt nguồn từ những định kiến chủ quan, duy ý chí của thời kỳ trước. Thành tựu kinh tế đạt được từ khi thực hiện đổi mới là to lớn, trong đó nằm ở đằng sau (hay ở bên trên) những thành tựu có thể biểu thị bằng những con số thống kế cụ thể là một thành tựu quan trọng có ý nghĩa lịch sử: bước đầu xác lập địa vị chủ thể trực tiếp của người lao động trong lĩnh vực sản xuất vật chất. Sự biến đổi sâu sắc đó trong nền tảng kinh tế – xã hội tạo tiền đề kinh tế, điều kiện vật chất đồng thời đặt nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta đứng trước áp lực cực kỳ to lớn, phải tiếp tục đổi mới, hoàn thiện để nền tảng kinh tế tiếp tục củng cố và quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội được thực thi ở mức độ đầy đủ hơn.

          – Thứ hai, công cuộc dân chủ hóa ở nước ta được phát động từ khi bắt đầu đổi mới đến nay, đặc biệt là cuộc vận động lớn nhằm thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, sau đó được nâng cấp thành Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở đã có tác dụng làm cho sự hiểu biết về dân chủ và ý thức thực hiện dân chủ của đông đảo nhân dân – so với trước đây – được nâng lên rõ rệt; năng lực thực hành dân chủ của đông đảo nhân dân có bước trưởng thành mới biểu hiện trong tham gia và đóng góp ý kiến xây dựng các tổ chức Đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể chính trị – xã hội ở cơ sở, đóng góp ý kiến xây dựng Cương lĩnh, chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, Hiến pháp, bầu cử Quốc hội, tham gia giám sát, quản lý, đấu tranh chống tham nhũng với những hình thức sinh động và có hiệu quả hơn; nhu cầu dân chủ của nhân dân ta ngày càng cao, phong phú, đa dạng hơn, và dân chủ ngày càng thấm sâu vào các quan hệ xã hội; bản lĩnh của nhân dân ta giữ gìn, bảo vệ các thành quả dân chủ đã giành được cũng biểu hiện rõ rệt hơn trước.

          Đông đảo nhân dân tỏ ra đồng tình, công nhận, đánh giá tích cực những thành tựu mà công cuộc dân chủ hóa đã đạt được; nhưng chính trên mặt bằng của những thành tựu đó họ thể hiện tâm trạng bức xúc, đòi hỏi nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thực hiện sự đổi mới có ý nghĩa bước ngoặt để quyền làm chủ trực tiếp của họ được thực hiện. Trong thời gian vừa qua, những ý kiến đóng góp của đông đảo nhân dân cho Đại hội XI của Đảng được phản ánh trên báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng khác đã thể hiện tâm trạng đó, hơn nữa – về khách quan – những ý kiến đóng góp đó thể hiện sự chín muồi về trình độ và khả năng của nhân dân để bước vào giai đoạn thực thi quyền dân chủ trực tiếp.

          – Thứ ba, nhìn từ một góc độ khác, ở nước ta hiện nay việc phát huy hơn nữa những ưu điểm và nhất là việc khắc phục có hiệu quả những hạn chế, khuyết điểm mà cơ chế vận hành của nền dân chủ ở nước ta (Đảng lãnh đạo – Nhà nước quản lý – Nhân dân làm chủ) – đã bộc lộ và gây nên sự bức xúc trong dư luận xã hội – đòi hỏi phải hiện thực hóa quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân. Bởi vì nhân dân là người trực tiếp xây dựng và bảo vệ Đảng, làm cho Đảng thực sự là “đội tiền phong của giai cấp công nhân đồng thời là đội tiền phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc”4, đảm bảo cho Đảng tránh được nguy cơ chuyên quyền, độc đoán theo kiểu đảng trị … đã đưa một số Đảng cộng sản trên thế giới đến sự tan rã.

          Qua trải nghiệm thực tiễn của công cuộc đổi mới ở nước ta, càng ngày càng trở nên phổ biến quan niệm cho rằng muốn Nhà nước trong sạch vững mạnh, thực sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, tránh được nguy cơ thoái hóa bởi sự “gậm nhấm” của chủ nghĩa quan liêu và nạn tham nhũng, không có cách nào khác là đặt nhà nước đó dưới sự giám sát trực tiếp và sự bảo vệ của nhân dân – chủ thể đích thực của quyền lực xã hội.

* Như vậy:

          Về Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), cần nắm vững 5 bài học kinh nghiệm lớn: Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế; Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế; Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Về 8 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; Do nhân dân làm chủ; Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.

Về mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta và mục tiêu đến giữa thế kỷ XXI. Mục tiêu tổng quát là: xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Từ nay đến giữa thế kỷ 21, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Về 8 phương hướng cơ bản xây dựng xã hội chủ nghĩa: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường; Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất; Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

          Đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt những mối quan hệ lớn: Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; Giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; Giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; Giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; Giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; Giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; Giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; Giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ; Không phiến diện, cực đoan, duy ý chí.

          Về Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011- 2020, cần phân tích rõ để thấy cho hết những thuận lợi và khó khăn trong chặng đường 10 năm tới mà đất nước ta sẽ trải qua, sẽ phải đối mặt. Đồng thời, phải nắm thật vững 5 quan điểm phát triển và 3 đột phá chiến lược cũng như 12 nội dung trong định hướng phát triển kinh tế – xã hội; 4 vấn đề cơ bản nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của nhà nước.

Về Báo cáo chính trị, cần nắm thật vững mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước trong 5 năm tới, trong đó có mục tiêu tổng quát và 5 nhiệm vụ chủ yếu; 10 nhiệm vụ và giải pháp lớn mà Báo cáo chính trị đề cập; 7 nhiệm vụ trọng tâm, phải tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ.

Về Điều lệ Đảng (sửa đổi bổ sung): Trên cơ sở đánh giá việc thi hành Điều lệ Đảng (Khóa X), Đại hội XI cũng đã tiến hành sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung của Điều lệ cho phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ hiện nay. Đại hội đã thảo luận, sửa đổi, bổ sung các vấn đề như: tiêu chuẩn đảng viên, về những điều đảng viên không được làm, thời gian tính tuổi đảng của đảng viên, thành lập tổ chức cơ sở đảng, nhiệm kỳ đại hội đảng ở những nơi thành lập mới chia tách, hợp nhất, sáp nhập giữa nhiệm kỳ, quy định về thí điểm một số chủ trương mới, về tổ chức đảng trong Quân đội nhân dân và Công an nhân dân, về thẩm quyền kỷ luật đảng viên của cấp ủy các cấp.

Liên hệ bản thân:

+ Thường xuyên quán triệt, làm cho chi ủy, đảng viên, có nhận thức đúng về bản chất nội dung nguyên tắc, thấy được tính tất yếu phải thực hiện, từ đó từng bước nâng cao ý thức tự giác thực hiện đúng, đầy đủ nguyên tắc; qua đó những trường hợp vi phạm nguyên tắc do nhận thức không đúng có chiều hướng giảm. Đã cụ thể hóa nguyên tắc tập trung dân chủ thành Quy chế làm việc, Quy chế họp của chi ủy để làm cơ sở điều chỉnh hoạt động của chi ủy và từng đồng chí chi ủy viên; các điều khoản trong quy chế được nghiên cứu cụ thể, cân nhắc, thảo luận kỹ, đạt sự thống nhất cao trong cấp ủy trước khi ban hành. Quy chế sau khi ban hành, đã tổ chức quán triệt thường xuyên trong cán bộ, đảng viên nhất là trong cấp ủy viên để nắm chắc nội dung, có ý thức trách nhiệm chấp hành nghiêm nội dung và yêu cầu của quy chế. Trong quá trình tổ chức thực hiện, nhất là qua đợt kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” đã kịp thời điều chỉnh, bổ sung quy chế phù hợp với tình hình thực tế của cấp ủy.

+ Coi trọng việc mở rộng dân chủ trong bàn bạc, thảo luận, phát huy trí tuệ tập thể cấp ủy trong việc đề ra chủ trương, phướng hướng, nhiệm vụ của cấp ủy; chỉ đạo chấp hành nghiêm Nghị quyết, kết luận của chi ủy; Thực hiện nguyên tắc TTDC, mọi cán bộ, đảng viên (CB,ĐV) đều có quyền tham gia vào việc quyết định công việc của Đảng; có quyền được thông tin, thảo luận, tranh luận, nêu ý kiến riêng, bảo lưu ý kiến trong tổ chức; nhưng khi Đảng đã có nghị quyết thì phải nói và làm theo nghị quyết, thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức

Bí thư chủ trì, điều hành các cuộc họp đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ; các vấn đề trình tại cuộc họp đều được thảo luận dân chủ, các ý kiến góp ý được xem xét, tiếp thu đầy đủ; đối với những ý kiến khác nhau được thảo luận kỹ trước khi đi đến thống nhất. Sau khi thảo luận dân chủ, Bí thư chi bộ đưa ra ý kiến kết luận cuộc họp, kết luận chính xác, cụ thể từng vấn đề để cá nhân, đơn vị triển khai thực hiện.

Chỉ đạo, điều hành công tác tổ chức cán bộ đảm bảo dân chủ, đúng theo quy định; các vấn đề như đánh giá, tuyển chọn, quy hoạch, đào tạo, bố trí, sử dụng cán bộ đều được đưa ra bàn bạc trong tập thể chi ủy và quyết định theo đa số. Từ đó đã lựa chọn được những cán bộ có tiêu chuẩn, trình độ chính trị, trình độ chuyên môn phù hợp với vị trí được bố trí; các trường hợp cán bộ được chi ủy thực hiện luân chuyên, bổ nhiệm đã phát huy tốt năng lực, sở trường công tác.

Tuy nhiên, đôi lúc việc thực hiện nguyên tắc TTDC còn có biểu hiện hình thức; nhiều vấn đề được đưa ra bàn bạc, đóng góp ý kiến không đầy đủ, chưa thể hiện tinh thần theo nguyên tắc TTDC, một vài đảng viên không muốn đóng góp ý kiến, “dĩ hòa vi quý”, sinh hoạt chuyên môn ngại phát biểu, ngại va chạm, dĩ hòa vi quý, thấy đúng không dám bảo vệ, thấy sai không dám đấu tranh; không làm tròn bổn phận, chức trách được giao; trong quá trình tổ chức thực thi nhiệm vụ, vẫn còn biểu hiện yếu kém về chuyên môn nghiệp vụ, chưa tập trung trong công tác chuyên môn, chưa làm tốt công tác tham mưu và tổ chức chỉ đạo thực hiện.

Câu 2: Tại sao Đảng Cộng sản lấy nguyên tắc tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản ? Biểu hiện của tập trung và dân chủ trong Đảng ? Những đòi hỏi nảy sinh từ thực tế về nhận thức và thực hiện nguyên tắc này tại đơn vị ? Đề xuất các giải pháp thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ?

1/ Đảng ta lấy nguyên tắc tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức và họat động cơ bản của Đảng:

a/ Cơ sở lý luận:

Thời kỳ Mác – Ăngghen, đã đưa ra các nguyên tắc cơ bản về xây dựng tổ chức và hoạt động của ĐCS theo nguyên tắc tập trung dân chủ, mặc dù hai ông chưa dùng thuật ngữ “tập trung dân chủ” nhưng những nội dung chủ yếu của nguyên tắc này đã được thể hiện trong Điều lệ của Liên đoàn những người cộng sản.

Thời kỳ Lênin, Đảng phải thực hiện tốt dân chủ để phát huy cao độ trí tuệ, tính sáng tạo của mỗi đảng viên trong hoạt động, đồng thời Đảng phải hoạt động một cách tập trung thống nhất. Vì thế, Đảng phải xây dựng tổ chức, sinh hoạt và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ để thống nhất ý trí và hành động. Xa rời nguyên tắc này Đảng sẽ giảm sức mạnh và không tránh khỏi tan rã.

Vận dụng các nguyên lý của chủ nghĩa M-L về ĐCS vào xây dựng ĐCS VN. Hồ Chí Minh đã khái quát thành những nguyên lý chủ yếu như: lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản; thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; tự phê bình và phê bình; Kỷ luật nghiêm túc và tự giác; đòan kết thống nhất trong đảng; đức và tài, quan hệ giữa đức và tài của cán bộ; liên hệ mật thiết với nhân dân; xây dựng chi bộ, đảng bộ cơ sở và đội ngũ đảng viên; lê lối, phong cách làm việc, v.v.

b/ Cơ sở thực tiễn:

Trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn coi việc thực hiện dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân là mục tiêu cao cả, đồng thời là động lực to lớn của cách mạng nước ta. Ngay từ khi ra đời, Đảng đã xác định: tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản, có vai trò trực tiếp chỉ đạo toàn bộ quá trình xây dựng, tổ chức, sinh hoạt và hoạt động lãnh đạo của Đảng; quy định cơ cấu, hình thức tổ chức đảng; thiết lập chế độ các cơ quan lãnh đạo của Đảng; đồng thời, xác lập nguyên tắc giải quyết các mối quan hệ trong nội bộ Đảng. Bởi vậy, trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, nhất là khi Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu sụp đổ, Đảng ta vẫn vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức; vẫn phát huy được vai trò tiền phong, gương mẫu, sức sáng tạo của mọi cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng; tập trung được trí tuệ của toàn Đảng, tạo sức mạnh tổng hợp để xây dựng Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh, hoàn thành tốt sứ mệnh lịch sử đối với dân tộc.

Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản chỉ đạo xây dựng tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng. Đó cũng là nguyên tắc quan trọng nhất để chỉ đạo mọi hoạt động của tổ chức, sinh hoạt nội bộ và phong cách làm việc của Đảng. Nó làm cho Đảng Cộng sản được xây dựng thành một đội ngũ có kỷ luật chặt chẽ, có sức chiến đấu cao, phát huy được tính chủ động, năng động và sáng tạo của đông đảo cán bộ, đảng viên. Nó đảm bảo cho Đảng luôn là một tổ chức chiến đấu, một tổ chức lãnh đạo, một tổ chức hành động mà không phải là một câu lạc bộ chỉ bàn cãi suông. Nó bảo đảm cho sự thống nhất ý chí và hoạt động, tạo nên sức mạnh vô địch của một đảng cách mạng. Đây là nguyên tắc phân biệt chính đảng của giai cấp công nhân, đảng cách mạng chân chính với các đảng phái khác. Đây cũng là điểm mà mọi thế lực chống đối thường công kích nhằm phá hoại Đảng và phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng.

Lý luận về xây dựng Đảng mà Đảng ta tổng kết được qua thực tiễn hoạt động lâu dài của mình đã nêu lên nhiều nguyên tắc quan trọng như: tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình, kỷ luật nghiêm và tự giác, đoàn kết thống nhất trong Đảng. Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức của Đảng, theo đó, mọi việc trong Đảng đều phải được bàn bạc dân chủ, ai cũng có quyền được nêu ý kiến của mình, nhưng khi quyết định thì thiểu số phải phục tùng đa số, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, toàn Đảng phải phục tùng TW và cao nhất là đại hội Đảng. Tập trung dân chủ được coi là nguyên tắc rường cột để xây dựng Đảng thành một tổ chức chiến đấu chặt chẽ, vừa phát huy sức mạnh của mỗi người, vừa tạo nên sức mạnh tổng hợp của tổ chức. Dân chủ và tập trung  là hai mặt của một vấn đề. Dân chủ không đối lập với tập trung mà chỉ đối lập với tình trạng độc đoán, chuyên quyền. Tập trung không đối lập với dân chủ mà chỉ đối lập với tình trạng tản mạn, tự do, tuỳ tiện, vô tổ chức. Dân chủ là cơ sở của tập trung và tập trung chỉ có thể thực hiện được hiệu quả trên cơ sở phát huy thật sự dân chủ trong Đảng.

VD: Vai trò của nguyên tắc TTDC của ĐCSVN được thể hiện cụ thể qua mọi hoạt động đều trên cơ sở TTDC, như việc xây dựng nghị quyết thể hiện như sau:

  • Xây dựng dự thảo do cấp ủy thực hiện là thể hiện tập trung
  • Sau đó đảng viên góp ý là thể hiện dân chủ
  • Thống nhất ý kiến là thể hiện tập trung
  • Đảng viên chính thức biểu quyết thông qua là thể hiện dân chủ
  • Quyết định theo đa số là thể hiện tập trung
  • Ý kiến thiểu số được bảo lưu là thể hiện dân chủ

Dân chủ là để phát huy cao độ trí tuệ, tính sáng tạo, kinh nghiệm của mỗi đảng viên trong hoạt động.

Tập trung là để đảm bảo cho tổ chức Đảng thống nhất về ý chí, hành động; tạo tổ chức chặt chẽ, tạo nên sức mạnh của Đảng.

c/ Nội dung cơ bản của của nguyên tắc tập trung dân chủ 

Hiện nay, nước ta bước vào thời kỳ mới, đẩy mạnh CNH, HĐH trong bối cảnh tình hình quốc tế, trong nước có nhiều biến đổi sâu sắc, nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ đã được Đảng ta chỉ rõ trong Điều 9 Điều lệ Đảng do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng thông qua:

  1. Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
  2. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp ủy).
  3. Cấp ủy các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước đại hội cùng cấp, trước cấp ủy cấp trên và cấp dưới; định kỳ thông bó tình hình hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê bình và phê bình.
  4. Tổ chức Đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng. Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội địa biểu toàn quốc và Ban Chấp hành Trung ương.
  5. Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có gí trị thi hành khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi biểu quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp ủy cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp ủy có thẩm quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó, không phân biệt đối xử với đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số.
  6. Tổ chức Đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình, song không được trái với nguyên tắc, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên.

          Như vậy, một mặt, tập trung dân chủ có nghĩa là, tất cả các cơ quan đảng phải do bầu cử mà ra và hoạt động theo nguyên tắc lãnh đạo tập thể, cá nhân phụ trách, thực hiện chế độ báo cáo, định kỳ thông báo tình hình hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình. Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết của Đảng. Mặt khác, tập trung dân chủ có nghĩa là kỷ luật nghiêm ngặt và thống nhất đối với toàn thể đảng viên, là phục tùng ý chí và nghị quyết của đa số, là các cơ quan cấp dưới có nghĩa vụ phải chấp hành quyết định của các cơ quan có thẩm quyền cấp trên. Điều đó sẽ đảm bảo cho công tác và sự lãnh đạo của Đảng được tập trung, đoàn kết, tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động của toàn đảng.

Tham khảo:    

*Về bản chất của nguyên tắc tập trung dân chủ thể hiện rõ sự thống nhất giữa tập trung và dân chủ. Sự thống nhất đó không phải là ngẫu nhiên, mà nó được quy định bởi những nhân tố khách quan của cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và bởi nhiệm vụ của Đảng Cộng sản phải lãnh đạo cuộc đấu tranh đó đến thắng lợi cuối cùng. Chúng ta có thể thấy:

        – Tập trung có nghĩa là Đảng Cộng sản phải có một Cương lĩnh cách mạng chung, trong đó nêu lên mục tiêu của cách mạng và được toàn thể đảng viên quán triệt thực hiện. Tập trung còn thể hiện ở việc lãnh đạo các tổ chức đảng, các công tác của đảng do một trung tâm thực hiện là đại hội đại biểu toàn quốc, và trong thời kỳ giữa hai nhiệm kỳ đại hội là Ban Chấp hành TW Đảng. Các Nghị quyết của đại hội và Ban Chấp hành TW Đảng với tính cách là biểu hiện ý chí của toàn Đảng, bắt buộc tất cả và toàn thể đảng viên phải thi hành. Tập trung đòi hỏi phải có kỷ luật thống nhất phải tuân thủ những tiêu chuẩn sinh hoạt đảng, có ý thức phục tùng Nghị quyết của Đảng. Do đó, tập trung trong Đảng không những là uy quyền của tư tưởng, mà còn là uy quyền của tổ chức, do các cơ quan đó thể hiện.

        – Bên cạnh đó, Đảng Cộng sản tồn tại sẽ không có ý nghĩa nếu không có dân chủ trong Đảng. Đây là một tổ chức chính trị tự nguyện, độc lập, sức mạnh của Đảng là do tính tích cực tự giác của toàn thể đảng viên. Chỉ khi nào đảng viên tự thảo luận và giải quyết tất cả mọi vấn đề kể cả việc thành lập các cơ quan lãnh đạo của đảng thì tính tích cực của đảng viên mới được nâng cao. Có thực hiện dân chủ trong Đảng mới có điều kiện rèn luyện, giáo dục đảng viên, mới phát huy tốt nhất nghị lực của họ vào việc đề ra và thực hiện đường lối chính sách của Đảng. Như vậy, dân chủ trong Đảng thực chất là phát huy quyền làm chủ của toàn thể đảng viên, là sự tham gia tích cực của toàn thể đảng viên vào công việc của Đảng một cách trực tiếp, hay thông qua những đại biểu của họ vào việc vạch ra những đường lối, chính sách, vào việc thành lập các cơ quan lãnh đạo của Đảng. Nhưng chỉ trong điều kiện có tính tổ chức cao, tính kỷ luật chặt chẽ, thừa nhận sự lãnh đạo thống nhất của Đảng thì đảng viên mới có thể thực hiện được nghĩa vụ và quyền hạn của mình.

        Nguyên tắc tập trung dân chủ là sự kết hợp hài hoà giữa hai mặt tập trung và dân chủ, tạo thành chỉnh thể thống nhất của một nguyên tắc. Đó là bản chất của nguyên tắc này. Tuy nhiên, chúng ta cần hiểu trong Đảng dân chủ gắn với tập trung. Bởi vì tập trung và dân chủ là hai mặt, hai yếu tố cấu thành của nguyên tắc tập trung dân chủ. Dân chủ trong Đảng phải có tính đảng, có lãnh đạo, gắn liền với kỷ luật Đảng. Dân chủ là điều kiện, là tiền đề của tập trung, cũng như tập trung là cơ sở, là cái bảo đảm cho dân chủ được thực hiện. Lênin đã nhấn mạnh sự thống nhất giữa tập trung dân chủ trong hoạt động của đảng; đồng thời cũng kiên quyết chống lại chủ nghĩa xét lại đem đối lập hai khái niệm đó với nhau. Người viết: Trên báo chí của chúng tôi, chúng tôi luôn luôn bảo vệ dân chủ trong nội bộ đảng. Nhưng chúng tôi không bao giời phản đối chế độ tập trung của Đảng. Chúng tôi chủ trương chế độ tập trung dân chủ. Do đó, đối với một đảng mác xít lêninnít, trừ những hoàn cảnh riêng biệt của các giai đoạn cách mạng, dân chủ và tập trung phải được coi trọng như nhau, tuyệt đối hoá một mặt nào đều có thể dẫn đến những sai lầm nguy hiểm, có hại cho sự lãnh đạo và sức mạnh của Đảng.

Đề xuất giải pháp

Để thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng một cách đúng đắn và hiệu quả, cần phải có nhận thức đúng đắn và thống nhất về yêu cầu, nội dung dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ cần thực hiện các giải pháp sau đây:

        Thứ nhất, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về nguyên tắc tập trung dân chủ; làm rõ nội dung, yêu cầu của nguyên tắc này trong tình hình mới; đấu tranh chống những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ.

        Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hóa, quy chế hóa nguyên tắc tập trung dân chủ cho từng lĩnh vực, từng mặt công tác xây dựng Đảng.

        Thứ ba, mở rộng dân chủ đi đôi với củng cố, tăng cường kỷ cương, kỷ luật trong Đảng. Xây dựng các thiết chế, cơ chế cho phép phát huy thật sự mạnh mẽ dân chủ, trước hết là đảm bảo thực hiện các quyền của đảng viên, nhất là quyền được thảo luận, chất vấn, phê bình, thông tin, bảo lưu ý kiến. Đồng thời với mở rộng dân chủ phải củng cố, tăng cường kỷ cương, kỷ luật trong Đảng. Mọi tổ chức đảng và đảng viên phải thực hiện nhiệm vụ chấp hành chỉ thị, nghị quyết của Đảng, nói và làm theo nghị quyết của Đảng.

        Thứ tư, thực hiện nghiêm túc chế độ tập thể lãnh đạo đi đôi với cá nhân phụ trách. Thể chế hóa thành các quy chế, quy định cụ thể về tổ chức, lề lối làm việc, trách nhiệm của tập thể, cá nhân để vừa giữ vững chế độ lãnh đạo tập thể, vừa tăng cường mạnh mẽ trách nhiệm cá nhân. Tập trung làm rõ trách nhiệm cá nhân, quy định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng và cơ quan, đơn vị.

        Thứ năm, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Xử lý nghiêm minh, kịp thời những đảng viên, tổ chức vi phạm nguyên tắc này.

         Tóm lại, thực hiện tốt và hiệu quả nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng sẽ tăng cường sự đoàn kết nội bộ, tạo không khí tích cực và tin cậy của đội ngũ cán bộ đối với cấp lãnh đạo, xây dựng Đảng ta thành một khối thống nhất về ý chí và hành động, để Đảng thực hiện được vai trò lãnh đạo và là người tổ chức mọi thắng lợi nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Trong tình hình mới, cũng có những ý kiến lạc điệu, trái chiều, lợi dụng để chống Đảng, phủ nhận nguyên tắc này. Bởi vậy, chúng ta cần phải tỉnh táo, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của chúng; luôn giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng, bảo đảm xây dựng các tổ chức đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra.

Câu 3: Những nhận thức cơ bản về tổ chức cơ sở Đảng (TCCSĐ)? Căn cứ nội dung đánh giá chất lượng TCCSĐ Anh, chị liên hệ việc thực tế tại Chi bộ (đảng bộ)? Đề xuất biện pháp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng ?

1/ Khái niệm:

Tổ chức cơ sở đảng là tổ chức Đảng được thành lập ra ở một đơn vị cơ sở, phải có từ ba đảng viên chính thức trở lên, phải chịu sự lãnh đạo của cấp ủy cấp trên trực tiếp.

Tổ chức cơ sở đảng gồm chi bộ cơ sở hoặc đảng bộ cơ sở. Việc lựa chọn mô hình tổ chức nào (chi bộ cơ sở hoặc đảng bộ cơ sở) phụ thuộc vào số lượng đảng viên chính thức và phải được cấp ủy cấp trên (quận, huyện ủy hoặc tương đương) trực tiếp quyết định.

  1. Vị trí, vai trò của tổ chức cơ sở đảng

Điều 21, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở. với vị trí là nền tảng của đảng, tổ chức cơ sở đảng có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự vaững mạnh và năng lực lãnh đạo của Đảng.

a/ Tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng:

– Xét trong hệ thống tổ chức cơ sở của Đảng thì tổ chức cơ sở đảng là cấp cuối cùng trong hệ thống tổ chức của Đảng, là cấp tổ chức sâu rộng nhất, bám sát các đơn vị cơ sở trên toàn lãnh thổ và các ngành, các lĩnh vực của đời sống xã hội, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng tới từng đảng viên, từng đơn vị và từng người dân. Vì vây, tổ chức cơ sở đảng là “nền tảng”, là “gốc rễ” của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Chi bộ là gốc rễ của Đảng” và “…chi bộ là nền tảng của Đảng, của cách mạng ở xã, phường…”. “Đảng mạnh là do các chi bộ mạnh” và “các chi bộ mạnh tức là Đảng mạnh”.

– Trong hoạt động lãnh đạo của Đảng đối với mọi mặt của đời sống xã hội, tổ chức cơ sở đảng vừa là nơi trực tiếp thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; đồng thời cũng là nơi góp phần phát triển và hoàn thiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.

– Tở chức cơ sở đảng còn là tổ chức cầu nối Đảng với quần chúng nhân dân, sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó, liên hệ mật thiết với nhân dân. Trong mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân, vai trò của tổ chức cơ sở đảng là những “sợi dây chuyền” trực tiếp nối liền Đảng với nhân dân. Nói về vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Tác dụng của Chi bộ là cực kỳ quan trọng, vì nó là sợi dây chuyền để liên hệ Đảng với quần chúng”.

b/ Tổ chức cơ sở đảng là hạt nhân chính trị ở cơ sở

– Với vị trí, vai trò là hạt nhân chính trị ở cơ sở, tổ chức cơ sở đảng tuy là một bộ phận trong hệ thống chính trị ở cơ sở, nhưng là tổ chức lãnh đạo tất cả các tổ chức khác trong hệ thống chính trị đó, là tổ chức đảm bảo cho mọi hoạt động ở cơ sở theo đúng định hướng chính trị của Đảng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Mỗi Chi bộ ta phải là một hạt nhân vững chắc, lãnh đạo đồng bào thi đua yêu nước, cần kiệm xây dựng nước nhà”. Rằng “Mỗi chi bộ ta phải là một hạt nhân lãnh đạo quần chúng ở cơ sở…”.

– Chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở là trung tâm đoàn kết, quy tụ, tập hợp mọi lực lượng ở cơ sở thành một khối thống nhất ý chí và hành động, tạo ra sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của cơ sở.

– Tổ chức cơ sở đảng còn là nơi giáo dục, tổ chức, động viên nhân dân thực hiện có hiệu quả Cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, góp phần xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

3/ Nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng

Điều 23 Điều lệ Đảng đã quy định 5 nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng như sau:

Một là, chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; đề ra chủ trương, nhiệm vụ chính trị của đảng bộ, chi bộ và lãnh đạo thực hiện có hiệu quả.

Hai là, xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình, giữ gìn kỷ luật và tăng cường đoàn kết, thống nhất trong Đảng; thường xuyên giáo dục, rèn luyện và quản lý cán bộ đảng viên, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, tính chiến đấu, trình độ kiến thức, năng lực công tác; làm công tác phát triển đảng viên.

Ba là, lãnh đạo xây dựng chính quyền, các tổ chức kinh tế, hành chính, sự nghiệp, quốc phòng, an ninh và các đoàn thể chính trị – xã hội trong sạch, vững mạnh, chấp hành đúng pháp luật và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

Bốn là, liên hệ mật thiết với nhân dân, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ lợi ích chính đảng của nhân dân; lãnh đạo nhân dân tham gia xây dựng và thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

Năm là, kiểm tra, giám sát việc thực hiện, bảo đảm các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh; kiểm tra, giám sát tổ chức đảng và đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng.

Đảng ủy cơ sở, nếu được cấp ủy cấp trên trực tiếp ủy quyền thì được quyết định kết nạp đảng và khai trừ đảng viên.

Năm nhiệm vụ trên đây là năm nội dung cơ bản, chung nhất để thực hiện chức năng lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng. Mỗi nhiệm vụ có vị trí và yêu cầu riêng, không thể coi nhẹ nhiệm vụ nào. Thực hiện chức năng, nhiệm vụ nói trên trong tình hình hiện nay cần kiểm tra, giám để phát hiện, bổ sung, hoàn thiện các quy định, quy chế hoạt động cụ thể cho phù hợp với các loại hình tổ chức cơ sở đảng, đúng Điều lệ Đảng, đúng pháp luật của Nhà nước.

Các chi bộ phải bảo đảm sinh hoạt thường lệ hàng tháng, nâng cao chất lượng sinh hoạt, thực hiện tốt việc phân công và kiểm tra công tác của đảng viên. Đảng viên đang công tác ở cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp phải thường xuyên giữ mối liên hệ với chi ủy, đảng ủy cơ sở nơi cư trú theo quy định. Điều đó quy định rõ hơn trách nhiệm của cấp ủy Đảng cơ sở đối với đảng viên ở nơi cư trú, phải gương mẫu thực hiện các nghĩa vụ công dân. Ngoài ra, còn có quy định tổ chức cơ sở đảng phải tổ chức tất cả đảng viên phải được học tập nâng cao trình độ chính trị và nghiệp vụ theo chương trình hàng năm.

4/ Liên hệ việc thực hiện nhiệm vụ của tổ chức Chi bộ

Ưu điểm:

+ Chi bộ thường xuyên phổ biến và quán triệt đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến từng đảng viên trong các kỳ sinh hoạt đảng, để đảng viên hiểu rõ và tuyên truyền vận động quần chúng và gia đình chấp hành tốt chủ trương đường lối của đảng và pháp luật của NN.

+ Chi bộ cụ thể hóa nghị quyết, chỉ thị của đảng ủy cấp trên để tổ chức lãnh đạo thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính trị của đơn vị và xây dựng kế họach theo tiêu chí quy định về xây dựng chi bộ trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức.

+ Chi bộ tổ chức sinh hoạt đảng theo quy định định kỳ tháng một lần vào cuối tháng để phổ biến các văn bản của đảng và của cấp ủy cấp trên và kết quả thực hiện nghị quyết của chi bộ trong tháng trước và đề ra nghị quyết cho tháng sau để tổ chức thực hiện có hiệu quả.

+ Trong sinh hoạt đảng, chi bộ luôn thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trên cơ sở góp ý của từng đảng viên và biểu quyết thông qua; thực hiện nghiêm túc tự phê bình và phê bình, nhưng luôn giữ gìn kỷ luật và tăng cường đoàn kết thống nhất trong đảng.

+ Định kỳ hàng quý chi bộ tổ chức sinh họat chuyên đề về “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Qua học tập nhằm giáo dục, rèn luyện và nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, tính chiến đấu của đảng viên.

+ Chi bộ lãnh đạo hai đòan thể là Công đòan và Đòan thanh niên của đơn vị thực hiện các nhiệm vụ, kế họach do Công đòan cấp trên và Đòan thanh niên cấp trên giao cho. Qua đó sinh hoạt Công đòan và Đòan thanh niên, chi bộ tập hợp quần chúng và gần gũi quần chúng tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của quần chúng, quan tâm đến đời sống và tinh thần của quần chúng.

Kết quả trong suốt nhiệm kỳ vừa qua, Chi bộ được công nhận là “Chi bộ trong sạch-vững mạnh” và có năm được công nhận là “Chi bộ trong sạch-vững mạnh” tiêu biểu.

Hạn chế:

+ Nhiệm vụ đề ra chưa cụ thể còn chung chung và chưa sát với thực tế, nên ảnh hưởng ít nhiều đến công tác đều hành của chính quyền và của hai đòan thể.

+ Tuy tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên đề về “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, nhưng còn nặng hình thức chưa có chiều sâu và chưa thật sự sôi động, để thu hút quần chúng học tập và làm theo.

+ Về công tác của hai đoàn thể công đoàn và đoàn thanh niên thì còn mang tính chiếu lệ làm cho có, nên chưa phát huy được tính năng động và sáng tạo, vì đây là lực lượng trẻ và nòng cốt trong đơn vị, có năng lực chuyên môn, nhằm tạo đều kiện cho họ tích cực tham gia cống hiến nhiều cho chi bộ và cho đơn vị.

Đề xuất biện pháp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu tại chi bộ:

– Nâng cao năng lực lãnh đạo của cấp ủy, nâng cao nhận thức của cấp ủy, nhất là về vị trí, tầm quan trọng của công tác đảng viên nói chung, công tác giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên nói riêng.

– Nâng cao chất lượng đảng viên như phải chú trọng đến công tác giáo dục, rèn luyện và giáo dục chính trị tư tưởng đối với đảng viên.

– Cần quản lý chặt chẽ đảng viên về chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống và các mối quan hệ xã hội; đề cao vai trò quản lý của cấp ủy, chi bộ và phát huy vai trò tự quản lý của đảng viên.

– Nâng cao chất lượng sinh họat chi bộ như chấp hành nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; nêu cao tính tiền phong, gương mẫu trong chấp hành các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng; nghiêm túc tự phê bình và phê bình trung thực, chân thành, thẳng thắn, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất; đổi mới phương pháp, tác phong công tác theo hướng dân chủ, sát thực tế, nói đi đôi với làm; lắng nghe, tiếp thu ý kiến đóng góp cán bộ, đảng viên và quần chúng.

– Đánh giá xếp lọai tổ chức cơ sở đảng đúng thực chất, khách quan và trách tình trạng bệnh thành tích.

– Tăng cường kiểm tra, giám sát của cấp ủy cấp trên trực tiếp đối với cấp ủy, đảng viên về chấp hành Điều lệ Đảng, Nghị quyết, chỉ thị, nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, việc thực hành tiết kiệm, phòng chống tham nhũng, lãng phí, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, giữ gìn tư cách đảng viên.

Tham khảo phần giải pháp:

Để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ, cấp ủy, cán bộ chủ trì các cấp cần tập trung làm tốt các giải pháp chủ yếu sau:

Một là, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, trách nhiệm của cấp uỷ, cán bộ chủ trì các cấp và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong xây dựng TCCSĐ trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu cao.

         Chi bộ có vai trò đặc biệt quan trọng đối với công tác xây dựng Đảng và hoạt động lãnh đạo của Đảng. Sự vững mạnh của chi bộ tạo thành “nền móng” bảo đảm cho sự phát triển nhà trườngvững chắc.

          Cấp uỷ, chi ủy đảng, cán bộ chủ trì, tiếp tục nghiên cứu, quán triệt và thực hiện Nghị quyết số 22-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 6 (khóa X) về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; chủ trương kiện toàn TCCSĐ, nâng cao chất lượng đảng viên theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI; các chỉ thị, quy định của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về xây dựng TCCSĐ và đội ngũ cán bộ, đảng viên; nắm vững chức năng, nhiệm vụ của các loại hình TCCSĐ; nâng cao nhận thức cho cấp ủy, cán bộ chủ trì các cấp và đội ngũ cán bộ, đảng viên về vị trí then chốt của công tác xây dựng Đảng và vai trò nền móng, hạt nhân chính trị ở cơ sở của TCCSĐ;

          Hai là, củng cố, kiện toàn, nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện của cấp uỷ cơ sở và chi bộ; trước hết là năng lực lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và xây dựng địa phương, cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện.

            Cấp uỷ, cán bộ chủ chốt cần thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo, xây dựng, củng cố, kiện toàn cấp uỷ cơ sở có số lượng, cơ cấu hợp lý, chất lượng cao, đúng quy định của Ban Chấp hành Trung ương, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng loại hình TCCSĐ và đặc điểm của đội ngũ đảng viên. Kết hợp chặt chẽ việc kiện toàn cấp uỷ với bố trí cán bộ chủ trì; lựa chọn, bố trí nhân sự cán bộ chủ trì, chủ chốt có đủ tiêu chuẩn để bầu vào cấp uỷ, bí thư, phó bí thư đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị.

          Ba là, duy trì thực hiện nghiêm các nguyên tắc, chế độ, quy định và tích cực đổi mới nội dung, hình thức, nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng.

             Cấp uỷ, tổ chức đảng cơ sở chấp hành nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; đồng thời xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu, khuyến khích người đứng đầu có nhiệt tình, tâm huyết, dám nghĩ, dám làm, khắc phục tình trạng dựa dẫm vào tập thể. Chấp hành nghiêm các quy chế, quy định lãnh đạo công tác cán bộ, quản lý tài chính, tài sản, đất đai, đầu tư xây dựng cơ bản…

            Cán bộ chủ trì, cấp uỷ viên cơ sở phải thực sự tâm huyết đề cao trách nhiệm trong xây dựng Đảng và triển khai tổ chức thực hiện nghị quyết của cấp ủy, tổ chức đảng; nêu cao tính tiền phong, gương mẫu trong chấp hành các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng; nghiêm túc tự phê bình và phê bình trung thực, chân thành, thẳng thắn, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất; đổi mới phương pháp tác phong công tác theo hướng dân chủ, sát thực tế, nói đi đôi với làm; lắng nghe, tiếp thu ý kiến đóng góp cán bộ, đảng viên và quần chúng.

Bốn là, tăng cường quản lý, giáo dục, rèn luyện, kiểm tra, giám sát cấp ủy, tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên.

           Cấp ủy, TCCSĐ cần quản lý chặt chẽ cả đội ngũ và từng cán bộ, đảng viên về chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống và các mối quan hệ xã hội; đề cao vai trò quản lý của cấp ủy, chi bộ và phát huy vai trò tự quản lý của cán bộ, đảng viên. Tiếp tục thực hiện nghiêm Quy định số 76-QĐ/TW của Bộ Chính trị về đảng viên đang công tác thường xuyên giữ mối liên hệ với cấp ủy cơ sở và gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú, Quy định số 47-QĐ/TW của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm. Thực hiện nghiêm việc kê khai tài sản theo quy định của Đảng và Nhà nước. Xử lý nghiêm đảng viên vi phạm; kiên quyết đưa những người không đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng; nâng cao chất lượng công tác phát triển Đảng.

           Tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao bản lĩnh chính trị và bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp, nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập chính trị.

           Thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo quy định của Điều lệ Đảng và các quyết định, quy định của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị. Tăng cường kiểm tra, giám sát của cấp ủy cấp trên đối với cấp ủy, TCCSĐ và cán bộ, đảng viên về chấp hành Điều lệ Đảng, Nghị quyết, chỉ thị, nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, việc thực hành tiết kiệm, phòng chống tham nhũng, lãng phí, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, giữ gìn tư cách đảng viên. Chú trọng kiểm tra đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt, đảng viên, tổ chức đảng có dấu hiệu vi phạm kỷ luật, các lĩnh vực công tác trọng yếu và nhạy cảm. Thực hiện công khai, minh bạch các chế độ, chính sách và phát huy vai trò kiểm tra, giám sát của quần chúng đối với cán bộ, đảng viên. Bảo vệ, khuyến khích các tổ chức và cá nhân tích cực phát hiện, kiên quyết đấu tranh với các hành vi tham nhũng, tiêu cực trong cơ quan, đơn vị.

8 nhóm giải pháp tại nghị quyết XI :

  1. Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị

– Kiên định chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ của toàn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết của cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp; không dao động trong bất cứ tình huống nào. Kiên định đường lối đổi mới, chống giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc chủ quan, nóng vội, đổi mới vô nguyên tắc.

– Khẩn trương triển khai cụ thể hoá, thể chế hoá và tổ chức thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội XI về Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011 – 2020, phương hướng, nhiệm vụ 5 năm 2011 – 2015 và Điều lệ Đảng (sửa đổi, bổ sung); gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn các nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt và phát triển văn hoá – nền tảng tinh thần của xã hội (đây là điểm mới so với Đại hội X).

2- Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận

– Tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ một số vấn đề về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình đổi mới, không ngừng phát triển lý luận, đề ra đường lối và chủ trương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước; khắc phục một số mặt lạc hậu, yếu kém của công tác nghiên cứu lý luận.

– Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng, tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tuyên truyền, cổ vũ động viên các nhân tố mới, điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt, giáo dục truyền thống yêu nước, cách mạng. Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ ta; khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên (đây là điểm mới so với Đại hội X).

3- Rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân

– Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là nhiệm vụ quan trọng thường xuyên, lâu dài của cán bộ, đảng viên, của các chi bộ, tổ chức đảng và các tầng lớp nhân dân (đây là điểm mới so với Đại hội X). Mỗi cán bộ, đảng viên không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, thực sự là một tấm gương về phẩm chất đạo đức, lối sống. Cán bộ cấp trên phải gương mẫu trước cán bộ cấp dưới, đảng viên và nhân dân.

– Cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần trách nhiệm trước Tổ quốc, trước Đảng và nhân dân, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Các tổ chức đảng tạo điều kiện để đảng viên công tác, lao động có năng suất, chất lượng, hiệu quả, đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước. Đẩy mạnh tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng.

– Triển khai thực hiện tốt Quy chế dân vận trong hệ thống chính trị; đổi mới và nâng cao chất lượng công tác vận động nhân dân. Định kỳ lấy ý kiến nhận xét của nhân dân về tư cách, đạo đức của cán bộ, đảng viên. Xử lý nghiêm mọi cán bộ, đảng viên vi phạm về trách nhiệm, phẩm chất đạo đức, lối sống.

4- Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị

– Tiếp tục xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và mô hình tổ chức của các tổ chức trong hệ thống chính trị. Sớm tổng kết việc thực hiện sáp nhập một số ban, bộ, ngành Trung ương để có chủ trương phù hợp. Kiện toàn, nâng cao chất lượng các cơ quan tham mưu, đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu, nhất là ở cấp chiến lược (đây là điểm mới so với Đại hội X).

– Tổng kết, đánh giá đúng thực trạng, đề ra các giải pháp củng cố và đổi mới mô hình tổ chức, phương thức hoạt động của các tổ chức đảng, nhất là của đảng đoàn, ban cán sự đảng. Tập trung chỉ đạo, củng cố những tổ chức đảng yếu kém; kịp thời kiện toàn cấp uỷ và tăng cường cán bộ ở nơi có nhiều khó khăn, nội bộ mất đoàn kết. Coi trọng đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp uỷ, tổ chức đảng, chất lượng tự phê bình, phê bình trong sinh hoạt đảng.

– Thật sự phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng, từ sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt cấp uỷ ở cơ sở đến sinh hoạt Ban Bí thư, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương. Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, chống quan liêu, bè phái, cục bộ, địa phương, độc đoán, vi phạm dân chủ, dân chủ hình thức.

5- Kiện toàn tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đảng viên

– Tập trung củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, tạo chuyển biến rõ rệt về chất lượng hoạt động của các loại hình cơ sở đảng, nhất là tổ chức đảng trong các đơn vị sự nghiệp và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế

– Đổi mới, tăng cường công tác quản lý, phát triển đảng viên, bảo đảm chất lượng đảng viên theo yêu cầu của Điều lệ Đảng. Xây dựng các tiêu chí, yêu cầu cụ thể về tư tưởng chính trị, trình độ năng lực, phẩm chất đạo đức, lối sống của đảng viên đáp ứng yêu cầu giai đoạn cách mạng mới; phát huy tính tiền phong gương mẫu, chủ động, sáng tạo của đội ngũ đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ được giao.

– Tổng kết, đánh giá kết quả và rút kinh nghiệm để tiếp tục thực hiện Quy định số 15-QĐ/TW của Ban Chấp hành Trung ương (khoá X) về đảng viên làm kinh tế tư nhân. Thực hiện thí điểm việc kết nạp những người là chủ doanh nghiệp tư nhân đủ tiêu chuẩn vào Đảng (đây là nội dung mới so với Đại hội X).

6- Đổi mới công tác cán bộ, coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ

– Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ công tác cán bộ. Thực hiện tốt Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; đổi mới tư duy, cách làm, khắc phục những yếu kém trong từng khâu của công tác cán bộ. Xây dựng và thực hiện nghiêm các cơ chế, chính sách phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; trọng dụng những người có đức, có tài. Nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; khắc phục tình trạng chạy theo bằng cấp. Làm tốt công tác quy hoạch và tạo nguồn cán bộ, chú ý cán bộ trẻ, nữ, dân tộc thiểu số, chuyên gia trên các lĩnh vực; xây dựng quy hoạch cán bộ cấp chiến lược. Đánh giá và sử dụng đúng cán bộ trên cơ sở những tiêu chuẩn, quy trình đã được bổ sung, hoàn thiện, lấy hiệu quả công tác thực tế và sự tín nhiệm của nhân dân làm thước đo chủ yếu. Không bổ nhiệm cán bộ không đủ đức, đủ tài, cơ hội chủ nghĩa. Thực hiện nghiêm quy chế thôi chức, miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý.

– Có chế tài xử lý nghiêm những trường hợp chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy tội, chạy tuổi, chạy bằng cấp, chạy huân chương (đây là điềm mới so với Đại hội X).

– Nghiên cứu ban hành và thực hiện tốt chính sách sử dụng và quản lý cán bộ, đảng viên có vấn đề về lịch sử chính trị. Chú trọng nắm và giải quyết vấn đề chính trị hiện nay.

7- Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát

– Các cấp uỷ, tổ chức đảng phải nâng cao tinh thần trách nhiệm, thực hiện tốt hơn nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo Điều lệ Đảng.

– Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ và hoạt động của hệ thống uỷ ban kiểm tra các cấp. Hoàn thiện quy chế phối hợp giữa uỷ ban kiểm tra đảng với các tổ chức đảng và các cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc xem xét khiếu nại, tố cáo và xử lý kỷ luật cán bộ, đảng viên.

8- Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng

– Tập trung rà soát, bổ sung, điều chỉnh, ban hành mới, xây dựng đồng bộ hệ thống các quy chế, quy định, quy trình công tác để tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị. Khắc phục tình trạng Đảng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo các cơ quan quản lý nhà nước.

– Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, tôn trọng nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ trung ương đến địa phương, cơ sở.

– Đổi mới cách ra nghị quyết, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết của Đảng. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong Đảng, khắc phục tình trạng rườm rà, bất hợp lý về thủ tục, giảm bớt giấy tờ, hội họp; sâu sát thực tế, cơ sở; nói đi đôi với làm.

Câu 4: Tình hình đội ngũ đảng viên của Đảng ta hiện nay có nhứng ưu điểm, hạn chế gì ? Liên hệ tại chi bộ (đảng bộ) Anh, chị? Đề xuất biện pháp nâng cao chất lượng, số lượng đảng?

1/ Khái niệm người Đảng viên Cộng sản Việt Nam

Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhânnhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trịĐiều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng vàpháp luật của Nhà nước; có lao động, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chứckỷ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng. (Điều 1 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam)

2/ Vị trí, vai trò của người đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam (24)

Thứ nhất, mối quan hệ giữ đảng viên đối với đường lối, nhiệm vụ chính trị của đảng. Đây là mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhaugiữ đảng viên với đường lối, nhiệm vụ chính trị. Đảng viên có vai trò quyết định trực tiếp xây dựng đường lối, nhiệm vụ chính trị đúng đắn hay không, nhất là những đảng viêngiữ cưong vị công tác quan trọng, có quan hệ trực tiếp đến việc xây dựng đường lối, nhiệm vụ chính trị.

Song đường lối, nhiệm vụ là kết tinh nghị lực, trí tuệ của đảng, do vậy có vai trò quyết định trở lại đối với từng đảng viênvà công tác xây dựng đội ngũ đảng viên. Đường lối, nhiệm vụ chính trị đúng sẽ bảo đảm xây dựng đội ngũ đảng viêntrong sạch vững mạnh.

Thứ hai, mối quan hệ giữa đảng viên với tổ chức đảng. Đảng viên là “tế bào” xây dựng nên các tổ chức cơ sở đảng. Không có đảng viên không thành tổ chức. Đảng viên tốt sẽ bảo đảm xây dựng tổ chức mạnh; đảng viên kém tổ chức không thể trong sạch, vững mạnh. Khi đã thành tổ chức, tổ chức quyết định trở lạiđới với từng đảng viên nhân sức mạnh của mỗi đảng viên lên gấp bội. Đứng ngòai tổ chức, xem thường tổ chức, sức mạnh của đảng viên bị triệt tiêu; chỉ đứng trong tổ chức, phục tùng tổ chức, sức mạnh của mỗi đảng viên mới được phát huy.

Thứ ba, mối quan hệ giữa đảng viên với phong trào cách mạng của nhân dân. Đảng viên có vai trò là người lãnh đạo, tổ chức các phong trào cách mạng của nhân dân, vì vậy phong trào của nhân dân mạnh hay yếu là do đảng viên lãnh đạo ở đó tốt hay kém. Song từ trong phong trào cách mạng của nhân dân, Đảng sẽ phát hiện được quần chúng tích cực để bồi dưỡng giúp đỡ, đồng thời là phong trào nhân dân cũng là nơi Đảng thử thách, rèn luyện đảng viên của mình. Gắn bó mật tiết với nhân dân, thông qua phong trào cách mạng của nhân dân là nguyên tắc hoạt động, là phương thức lãnh đạo của Đảng đối với xã hội.

3/ Tình hình đội ngũ đảng viên và công tác đảng viên tại chi bộ (đảng bộ) ở đơn vị?

Đại đa số đảng viên trong chi bộ đều có bản lĩnh chính trị vững vàng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tận tụy, sáng tạo, có ý thức tổ chức kỷ luật, có đạo đức, lối sống lành mạnh, tích cực học tập, rèn luyện, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

 *Ưu điểm

 Đa số đảng viên thuộc chi bộ được đào tạo bài bản về chuyên môn, có trình độ đại học (đảng viên có trình độ đại học và thạc sĩ, chiếm trên 94,74% tổng số), nhiều đồng chí đã tốt nghiệp chương trình đại học, có vốn sống và kinh nghiệm thực tế, tận tụy với công việc, có khả năng đáp ứng và hoàn thành tốt các công việc được giao.

Cán bộ đảng viên trong chi bộ cơ bản xây dựng được bản lĩnh, lập trường tư tưởng vững vàng, kiên định trước khó khăn, thách thức; có phẩm chất đạo đức tốt thực hiện đúng các quy định về những điều đảng viên không được làm, về phòng chống tham nhũng, lãng phí gắn với thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; phát huy tinh thần đoàn kết, vượt qua khó khăn thách thức, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Nhiều đồng chí đã phấn đấu và được đề bạt giữ các chức vụ trong quản lý chuyên môn, tham gia cấp ủy cơ sở và được quần chúng tín nhiệm bầu vào BCH các đoàn thể ở các  cấp.

Từ năm 2010 đến nay, qua đánh giá, xếp loại đảng viên hằng năm, toàn Chi bộ có trên 90% đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ, trong đó có 10% – 15% hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, góp phần xây dựng Chi bộ liên tục đạt danh hiệu tổ chức cơ sở chi bộ trong sạch vững mạnh tiêu biểu, cơ quan hoàn thành tốt nhiệm vụ do Đảng ủy và Ban Giám đốc giao.

 * Một số hạn chế.

Song song với những ưu điểm trên, đội ngũ đảng viên chi bộ vẫn còn những hạn chế, khuyết điểm.

Tuy không có tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với các biểu hiện như hướng dẫn của Ban tổ chức Trung ương, song trong chi bộ vẫn còn đảng viên có những biểu hiện suy thoái như trong sinh hoạt đảng, sinh hoạt chuyên môn ngại phát biểu, ngại va chạm, không làm tròn bổn phận, chức trách được giao; trong quá trình tổ chức thực thi nhiệm vụ, vẫn còn biểu hiện yếu kém về chuyên môn nghiệp vụ, chưa tập trung trong công tác chuyên môn, chưa làm tốt công tác tham mưu và tổ chức chỉ đạo thực hiện.

Còn có đảng viên chưa nêu cao tinh thần trách nhiêm, chưa gương mẫu trong công tác và cuộc sống đã vi phạm quy chế cơ quan, bị xử lý kỷ luật. Những khuyết điểm, hạn chế nêu trên có nguyên nhân khách quan do tác động tâm lý xã hội, do còn khoảng trống trong cơ chế, chính sách, pháp luật, do quản lý của Lãnh đạo, chi ủy chưa chặt chẽ, song chủ yếu là nguyên nhân chủ quan từ cá nhân mỗi đảng viên. Đó là do bản thân chưa cố gắng học tập để nâng cao trình độ, đáp ứng yêu cầu công việc; chưa cố gắng vượt khó khăn trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ; chưa rèn luyện tư tưởng đạo đức, nâng cao bản lĩnh, vượt qua các cám dỗ về vật chất, còn buông thả trong cuộc sống và sinh hoạt; chạy theo lợi ích, chủ nghĩa cá nhân.

b/ Một vài giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên.

Để nâng cao tính tiên phong, gương mẫu của đảng viên, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên Đảng CSVN nói chung và đảng viên trong chi bộ nói riêng, xin đề xuất một số giải pháp sau:

Một là: tổ chức tốt việc nghiên cứu, quán triệt các nội dung nghị quyết Đại hội XI của Đảng, đặc biệt là  Nghị quyết Trung ương 4 – Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay; tổ chức thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 03 CT/TW ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh một cách thiết thực, đi vào chiều sâu, nêu cao tính gương mẫu, thực hiện của người đứng đầu các cơ quan đơn vị, của Đảng viên có quyền, có chức trong thực hiện NQTW 4 và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, tạo chuyển biến rõ nét về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.

Hai là: Thực hiện tốt việc phân công nhiệm vụ cho Đảng viên theo hướng mỗi đảng viên đều được phân công một nhiệm vụ cụ thể, phù hợp với năng lực, sở trường, sức khỏe; coi trọng việc đánh giá, xếp loại đảng viên hằng năm, tránh hình thức, cào bằng; gắn đánh giá, xếp loại đảng viên với kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao; biểu dương, khen thưởng kịp thời, xứng đáng những đảng viên có thành tích tiêu biểu, uốn nắn những biển hiện lệch lạc, xử lý kỷ luật những trường hợp vi phạm, đảm bảo tính nghiêm minh.

Ba là: Đẩy mạnh công tác bồi dưỡng, kết nạp đảng viên, thông qua các phong trào thi đua; thông qua việc giao nhiệm vụ, tổ chức đảng phát hiện nguồn để bồi dưỡng, kết nạp quần chúng vào Đảng; chú trọng quan tâm đến đối tượng là thanh niên, cán bộ nữ, người có trình độ cao; thực hiện tốt công tác kết nạp đảng viên gắn với xây dựng chi bộ, làm trong sạch đội ngũ đảng viên.

Bốn là: Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng. Thường xuyên sàng lọc, đưa ra khỏi Đảng những đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, cố tình vi phạm kỷ luật Đảng và pháp luật Nhà nước. Việc kiểm tra, giám sát có thể tiến hành thông qua việc giao nhiệm vụ cho đảng viên, kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ; thông qua quan hệ trong công tác cũng như trong sinh hoạt.

Năm là: Làm tốt công tác quản lý đảng viên nơi làm việc và nơi cư trú, Chi bộ nơi đảng viên công tác phải thường xuyên giáo dục, kiểm tra đảng viên về đạo đức, lối sống bằng nhiều phương pháp, hình thức tác động khác nhau; có trách nhiệm quản lý toàn diện đảng viên về lập trường, tư tưởng, tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật, phong cách và lối sống. Mặt mạnh, yếu của đảng viên không chỉ thể hiện ra ở nơi công tác mà còn ở những nơi khác, trong đó có nơi cư trú. Chi bộ cần có phương pháp thích hợp, hiệu quả để uốn nắn, nắm chắc, nắm kịp thời các thông tin cần thiết có liên quan đến phẩm chất đạo đức của Đảng viên thể hiện trong mối quan hệ giữa đảng viên và gia đình với việc thực hiện chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước tại địa phương và mối quan hệ của đảng viên với quần chúng nhân dân nơi cư trú.

          Chi bộ có thể phối hợp với Chi bộ nơi đảng viên cư trú phát động phong trào quần chúng nhân dân tham gia giám sát các hoạt động của đảng viên, góp ý về đảng viên để có đánh giá toàn diện về đảng viên trong công tác cũng như cuộc sống.

Câu 5: Phân tích quan điểm của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ? Thực trạng cán bộ và công tác cán bộ tại đơn vị? Đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tại đơn vị?

Khái niệm về cán bộ:

Cán bộ bao gồm cán bộ, công chức, viên chức nói chung hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, các đơn vị sự nghiệp công và thành phần kinh tế nhà nước; họ được hình thành thông qua con đường đào tạo và bồi dưỡng trong các nhà trường và thực tiễn, có chuyên môn nghiệp vụ. Đây là bộ phận đông đảo và thường ổn định nhất.

Công tác cán bộ của Đảng thực chất là việc xây dựng đội ngũ cán bộ, bao gồm việc đề ra tiêu chuẩn, quy hoach, đào tạo, đánh giá, bổ nhiệm, đề bạt, luân chuyển, điều động, quản lý, khen thưởng, chính sách đãi ngộ cán bộ… nhằm phục vụ cho nhiệm vụ chính trị của Đảng, của cách mạng trong từng thời kỳ nhất định. Công tác cán bộ của Đảng ở cơ sở là những công việc mà cấp ủy, tổ chức cơ sở đảng tiến hành nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ có chất lượng tốt, đảm bảo cho đường lối chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước … được thực hiện nghiêm túc và đem lại hiệu quả thiết thực.

2/ Quan điểm của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ:

Một là, cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Phải thường xuyên chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đổi mới công tác cán bộ gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.

Bởi vì:

  • Cán bộ là người góp phần xây dựng, hoàn thiện và cụ thể hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; đồng thời là người tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối chủ trương ấy.
  • Cán bộ là người tổ chức, lãnh đạo, là lực lượng nồng cốt của các tổ chức trong hệ thống chính trị (Đảng, NN, Mặt trận, Đòan thể), có ý nghĩa quyết định trong xây dựng và phát huy vai trò của tổ chức.
  • Cán bộ là người trực tiếp và thường xuyên giữ mối liên hệ với quần chúng; là người tuyên truyền, giáo dục, vận động, tổ chức quần chúng thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ.

Do đó, năng lực lãnh đạo, uy tín của Đảng được thể hiện thông qua đội ngũ cán bộ, trước hết là đội ngũ cán bộ ở cơ sở.

Ý nghĩa: Quan điểm này khẳng định vai trò của CB đối với sự nghiệp cách mạng và công tác xây dựng Đảng.

 Quán triệt quan điểm:

  • Sự nghiệp CM thành công hay thất bại là do có đội ngũ CB tốt hay xấu.
  • Công tác xây dựng Đảng, đổi mới, chỉnh đốn Đảng thành công hay thất bại cũng phụ thuộc vào đội ngũ CB.

Hai là, xây dựng đội ngũ CB phải xuất phát từ chiến lược phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ Tổ quốc, từ yêu cầu nhiệm vụ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Bởi vì, mỗi giai đoạn cách mạnh có đường lối nhiệm vụ chính trị của giai đoạn ấy, đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ có chất lượng mới, đáp ứng yêu cầu thực hiện đường lối, nhiệm vụ chính trị. Do vậy tất cả các khâu của công tác cán bộ như xác định tiêu chuẩn, đánh giá, quy họach, kế họach đào tạo; quản lý sử dụng điều động.v.v. đều phải xuất phát và gắn với yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐ.

Ý nghĩa: Quan điểm chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa CB với đường lối, nhiệm vụ chính trị trong mỗi thời kỳ CM.

Quán triệt quan điểm:

  • Tiến hành công tác CB phải luôn xuất phát từ nhiệm vụ CM của Đảng, của địa phương trong từng thời kỳ và lấy thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị làm mục tiêu của công tác CB.
  • Trong thời kỳ hiện nay, phải căn cứ vào chiến lược phát triển KT-XH và bảo vệ Tổ quốc vào yêu cầu nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Ba là, quán triệt quan điểm giai cấp công nhân của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, truyền thống yêu nước, đại đoàn kết và gắn bó mật thiết với nhân dân; tập hợp rộng rãi các loại cán bộ, trọng dụng nhân tài, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, người ở trong nước hay người Việt Nam định cư ở nước ngoài. (Đội ngũ tiên tiến. Bản chất: có ý thức tổ chức kỷ luật, có tinh thần CM triệt để)

Bởi vì, Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của GCCN VN, đại biểu trung thành lợi ích của GCCN, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Để xứng đáng với điều đó, đội ngũ cán bộ của Đảng có vai trò đặc biệt quan trọng. Vì vậy Đảng phải xây dựng đội ngũ cán bộ theo quan điểm của GCCN.

Ý nghĩa: Quan điểm chỉ rõ, bản chất GCCN trong xây dựng đội ngũ CB của Đảng. Quán triệt quan điểm:

  • Dù xuất thân từ thành phần GC nào, CB phải tu dưỡng, rèn luyện lập trường, bản lĩnh chính trị của GCCN.
  • Cấp ủy cơ sở phải thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng lập trường, quan điểm, ý thức tổ chức kỷ luật của GCCN cho đội ngũ CB.
  • Tăng cường tỷ lệ cán bộ xuất thân từ GCCN trước hết là CB chủ chốt trong hệ thống chính trị.
  • Mặt khác, cần phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết, tập hợp rộng rãi các loại CB, trọng dụng nhân tài, không phân biệt đảng viên hay người ngoài Đảng, dân tộc, tôn giáo, người ở trong nước hay người Việt Nam định cư ở nước ngoài, không định kiến với những người có sai lầm trong quá khứ, nay đã hối cải và sửa chữa.

Bốn là, gắn việc xây dựng đội ngũ cán bộ với xây dựng tổ chức và đổi mới cơ chế, chính sách, phương thức, lề lối làm việc.

Ý nghĩa: Quan điểm về mối quan hệ biện chứng giữa CB, công tác CB với tổ chức có vai trò quyết định lẫn nhau.

Quán triệt quan điểm:

  • Muốn xây dựng đội ngũ CB tốt, phải gắn với xây dựng tổ chức (đơn vị) vững mạnh. Ngược lại, muốn xây dựng tổ chức (đơn vị) vững mạnh phải chăm lo xây dựng đội ngũ CB tốt.
  • Có nhiệm vụ chính trị mới lập ra tổ chức và bố trí CB, không vì CB mà lập tổ chức.
  • Từ nhiệm vụ chính trị mà xác định cần bao nhiêu CB, loại CB gì, trên cơ sở đó lựa chọn, đào tạo, bổ nhiệm, bố trí cán bộ cho phù hợp.

Năm là, thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của nhân dân, nâng cao trình độ dân trí, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để tuyển chọn, giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng cán bộ. Phải dựa vào nhân dân để phát hiện, kiểm tra và giám sát cán bộ.(kinh qua hoạt động thực tiễn: từ TT cơ sở nắm bắt khó khăn => chỉ đạo đúng)

Bởi vì, thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của nhân dân là môi trường tốt nhất để tuyển chọn, giáo dục, rèn luyện và bồi dữơng cán bộ, tạo nên những cán bộ tốt. Mặt khác, đội ngũ cán bộ tốt là người tuyên truyền, tổ chức, duy trì phong trào cách mạng của nhân dân, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng. Vì vậy, không có đội ngũ cán bộ tốt nếu không xây dựng và duy trì được phong trào của nhân dân và cũng không thể có phong trào cách mạng của nhân dân sôi nổi, liên tục nếu không có đội ngũ cán bộ tốt.

Ý nghĩa: Quan điểm về mối quan hệ biện chứng giữa công tác CB với phong trào cách mạng của quần chúng (hoạt động thực tiễn), nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực.

Quán triệt quan điểm:

  • Muốn có đội ngũ CB tốt, phải chăm lo xây dựng phong trào CM của quần chúng, hướng vào hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ chính trị của cơ sở là nơi lựa chọn và đào luyện, sàn lọc CB.
  • Chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo, nâng cao dân trí để xây dựng đội ngũ cán bộ cơ bản, hệ thống đồng bộ .
  • Mọi bằng cấp , phẩm giá ,chức vụ ,tài năng phải đuợc kiểm nghiệm trong thực tiễn phong trào cách mạng.

Sáu là, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ theo nguyên tắc tập trung dân chủ, đi đôi với phát huy trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị.(Đảng lãnh đạo toàn diện)

Ý nghĩa: Quan điểm khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác cán bộ là nhân tố quyết định thành công trong xây dựng đội ngũ cán bộ.

Qúan triệt quan điểm:

  • Tăng cuờng vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng là nhân tố quyết định thành công trong công tác cán bộ. Nội dung lãnh đạo công tác cán bộ phải tòan diện cả về chủ truơng, chính sách, cả về tiêu chuẩn, đánh giá, lựa chọn, quy họach, đào tạo, bồi duỡng, bố trí, sử dụng, đề bạt, khen thuởng và kỉ luật…Cán bộ đều do cấp quỹ có thẩm quyền quyết định theo đa số.
  • Qủan lí cán bộ phải tập trung, thống nhất theo nguyên tắc tập trung dân chủ, kết hợp với sự phân công, phân cấp cho các cấp uỷ Đảng, thuờng xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện công tác cán bộ ở các cấp, các ngành, đòan thể chính trị xã hội

3/ Thực trạng cán bộ ở đơn vị:

Qua quá trình công tác tại đơn vị, tôi nhận thấy cán bộ tại đơn vị của mình có một số điểm mạnh rất đáng phát huy và một số điểm hạn chế cần nhìn nhận thẳng thắn và tìm cách khắc phục như:

  • Một số điểm mạnh:
  • Đơn vị đã từng bước bổ sung về số lượng, nâng cao về chất lượng và lực lượng càng ngày càng trẻ hóa. Đặc biệt là đội ngũ lãnh đạo trẻ (trưởng phòng, phó trưởng phòng, giám đốc, phó giám đốc) chiếm tỷ lệ khá cao.
  • Nhiều cán bộ có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ chuyên môn và năng lực làm việc và được khẳng định qua các ý kiến đóng góp, phản hồi tích cực từ các đơn vị bạn, sở-ban-ngành khác.
  • Nhiều cán bộ trẻ được đào tạo bài bản, được đào tạo từ các chương trình thạc sĩ, quy hoạch cán bộ của Thành ủy do đó đã góp phần nâng cao năng lực thực thi công vụ tại đơn vị.
  • Một số hạn chế:
  • Vẫn còn tồn tại một bộ phận không nhỏ cán bộ công chức, viên chức không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, lơ là trong việc học tập, rèn luyện nâng cao trình độ chuyên môn, dẫn đến hiệu quả xử lý công việc không cao. Hệ lụy là công việc ùn tắc, trễ hạn, thời gian xử lý công văn trễ.
  • Đồng thời, vẫn có tình trạng cán bộ trì trệ, thiếu trách nhiệm, tính chiến đấu chưa cao một phần là do nhận thức, trình độ chưa đáp ứng nhu cầu. Nhưng có có trường hợp cán bộ công chức, viên chức trì trệ, hạch sách, nhũng nhiễu gây khó khăn không những cho doanh nghiệp, người dân đến liên hệ, công tác mà còn cho chính những “khách hàng” nội bộ của đơn vị.

Thực trạng công tác cán bộ

  • Ưu điểm:
  • Các cấp ủy, tổ chức đảng luôn chú trọng công tác cán bộ, xem công tác cán bộ là nhiệm vụ sống còn trong công tác xây dựng bộ máy hành chính nhà nước.
  • Các cấp lãnh đạo luôn chỉ đạo và thường xuyên thay đổi, điều chỉnh nội dung, phương pháp, cách thức tổ chức nhằm tăng cường tính dân chủ, công khai trong công tác cán bộ được mở rộng.
  • Triển khai tương đối đồng bộ các khâu của công tác cán bộ. Chú trọng nâng cao chất lượng cán bộ, nhất là cán bộ trẻ.
  • Hạn chế:
  • Tuy có đổi mới công tác cán bộ nhưng còn chậm, còn mang nặng tính hình thức.
  • Thiếu cơ chế phát huy dân chủ trong công tác cán bộ, phát hiện và sử dụng người tài. Một số trường hợp bổ nhiệm còn chưa đúng, có biểu hiện “nhất hậu duệ, nhì quan hệ, ba tiền tệ và bốn là trí tuệ”.
  • Công tác cán bộ thiếu tầm nhìn xa.
  • Chưa có chính sách thu hút người giỏi.
  • Chưa xây dựng được quy chế công việc nhằm tuyển dụng, sử dụng cán bộ đúng người, đúng việc, đúng chuyên môn nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng cán bộ.

4/ Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý

Một là, nâng cao nhận thức và trách nhiệm trong công tác cán bộ:

– Tiếp tục quán triệt, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng và người đứng đầu về tầm quan trọng của công tác cán bộ; trước yêu cầu đổi mới phải xây dựng được đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý vững vàng về chính trị, gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí tuệ, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn, gắn bó với nhân dân.

– Tăng cường vai trò lãnh đạo của cấp ủy đảng, người đứng đầu trong việc xây dựng, triển khai, nâng cao chất lượng các chương trình, kế hoạch, hướng dẫn thực hiện các chủ trương, nghị quyết, quyết định của Đảng, Nhà nước về công tác cán bộ. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát trong thực hiện công tác cán bộ.

Hai là, đổi mới công tác đánh giá, bố trí, sử dụng và quản lý cán bộ:

– Đổi mới công tác đánh giá, bố trí sử dụng cán bộ lãnh đạo, quản lý đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai, minh bạch, khách quan, công tâm, toàn diện, đề cao thẩm quyền trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, đơn vị.

– Đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý phải dựa trên cơ sở tiêu chuẩn các chức danh cán bộ và theo tiêu chí đánh giá cán bộ theo tiêu chuẩn chức danh, theo hiệu quả công việc và sự tín nhiệm của cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Thực hiện tốt việc định kỳ chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ, công chức và lãnh đạo để cán bộ được bồi dưỡng, rèn luyện trong môi trường mới, tiếp tục nâng cao phẩm chất, năng lực, trí tuệ theo kịp sự vận động phát triển kinh tế – xã hội.

– Đổi mới công tác tuyển chọn, bố trí, sử dụng cán bộ; cải tiến cách thức tuyển chọn, lấy phiếu tín nhiệm, bổ nhiệm cán bộ để chọn đúng người, bố trí đúng việc. Xây dựng và thực hiện tốt chế độ miễn nhiệm, từ chức, cho thôi việc, thay thế cán bộ kém phẩm chất và năng lực, không hoàn thành nhiệm vụ.

– Gắn việc xây dựng đội ngũ cán bộ, đổi mới công tác cán bộ với việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, với phòng chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, tiêu cực.

– Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy cấp trên đối với cấp dưới trong việc giáo dục, quản lý cán bộ lãnh đạo, quản lý và thực hiện công tác cán bộ. Xây dựng cơ chế đảng viên và nhân dân tham gia giám sát cán bộ và công tác cán bộ.

Ba là, nâng cao chất lượng quy hoạch cán bộ:

– Trên cơ sở các tiêu chuẩn về trình độ, năng lực, cơ cấu theo quy định, chủ động xây dựng quy hoạch ngay từ đầu nhiệm kỳ; chú trọng việc tạo nguồn cán bộ, phát hiện những nhân tố trẻ, điển hình từ phong trào thi đua.

– Tiếp tục nghiên cứu, đổi mới về phương pháp, cách thức xây dựng quy hoạch để đảm bảo tính khả thi. Kết hợp quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý với quy hoạch cán bộ chuyên môn nghiệp vụ, quản trị doanh nghiệp…

Bốn là, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ:

– Tạo chuyển biến sâu sắc trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo quy hoạch, theo tiêu chuẩn chức danh cán bộ, chú trọng bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ lãnh đạo, quản lý, coi đây là giải pháp quan trọng hàng đầu trong thực hiện Chiến lược cán bộ trong giai đoạn mới.

– Trên cở sở quy hoạch, tập trung công tác đào tạo, bồi dưỡng, đào tạo lại cán bộ theo tiêu chuẩn chức danh cán bộ, vị trí công tác của cán bộ để nâng cao năng lực cán bộ; thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao cho giai đoạn tiếp theo.

– Đẩy mạnh công tác bồi dưỡng cập nhật kiến thức mới về mọi lĩnh vực cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cũng như cán bộ dự nguồn các chức danh lãnh đạo, quản lý; trang bị kiến thức về hội nhập, thông lệ quốc tế, pháp luật, ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp, xử lý tình huống… xây dựng đề án, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho những năm tiếp theo.

Năm là, làm tốt công tác luân chuyển cán bộ:

– Đẩy mạnh công tác luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý; kết hợp luân chuyển, đào tạo cán bộ với việc bố trí một số chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý.

– Tiếp tục thực hiện luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý, tạo bước đột phá góp phần đổi mới sâu sắc công tác đào tạo, bồi dưỡng, tạo nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý lâu dài.

– Kết hợp các hình thức luân chuyển với thực hiện cơ chế thực tập, tập sự lãnh đạo, quản lý tạo điều kiện cho cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ quy hoạch được cống hiến, thử thách, rèn luyện, bồi dưỡng trong thực tiễn, giúp cán bộ luân chuyển bổ sung bồi đắp thêm những thiếu hụt về kiến thức, năng lực, kinh nghiệm, phong cách sống, gần gũi, sâu sát cơ sở và kỹ năng công tác đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới.

Sáu là, thực hiện tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ:

– Thực hiện nghiêm túc có kết quả về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; thu hút người có đức, có tài, tâm huyết, trách nhiệm cao vào làm việc.

– Kết hợp việc tinh giản biên chế với thực hiện định kỳ chuyển đổi vị trí công tác gắn với xây dựng tiêu chuẩn chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý, tiêu chí đánh giá cán bộ theo tiêu chuẩn chức danh, theo chất lượng, hiệu quả công việc được giao và sự tín nhiệm của cán bộ, đảng viên và nhân dân.

– Có cơ chế để thu hút, trọng dụng nhân tài, tạo điều kiện môi trường làm việc, bảo đảm lợi ích vật chất, tinh thần tương xứng với giá trị, kết quả sự cống hiến để thu hút người có tài năng, đội ngũ tri thức trẻ, cán bộ khoa học, chuyên gia giỏi về công tác tại địa phương.

Bảy là, thực hiện chính sách cán bộ:

– Gắn chính sách cán bộ trong từng khâu của công tác cán bộ, gắn trách nhiệm, nghĩa vụ với quyền lợi; khuyến khích cán bộ công tác ở những vùng khó khăn, cơ cơ sở; cải cách cơ bản chế độ tiền lương, tiền tệ hóa tiền lương và các chế độ theo lương; quan tâm chính sách về nhà ở, nhà công vụ đối với cán bộ, công chức.

– Cải cách công tác thi đua khen thưởng để tạo động lực thúc đẩy phong trào thi đua yêu nước một cách thực chất, khắc phục “bệnh thành tích”, hình thức, lãng phí. Tổ chức phong trào thi đua xây dựng môi trường làm việc tốt để phát huy tốt nhất khả năng cống hiến và phát triển của cán bộ.

5/ Liên hệ bản thân:

Là một công chức, tôi luôn chấp hành tuyệt đối sự phân công và điều động của tổ chức. Tuyên truyền và vận động các đồng chí, các cán bộ công chức viên chức trong đơn vị thực hiện tốt chế độ phân công, phân nhiệm. Tích cực tham gia góp ý trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ như công tác quy họach, bồi dưỡng đào tạo, đánh giá cán bộ… Đồng thời, luôn nâng cao ý thức tự rèn luyện, phấn đấu nâng cao trình độ lý luận, trình độ chuyên môn nghiệp vụ nhằm đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới của đất nước. Cụ thể, là một cán bộ thực hiện các công việc về giám sát, đánh giá đầu tư dự án sử dụng vốn nhà nước, tôi luôn cố gắng trau dồi chuyên môn nghiệp vụ về đầu tư, quản lý vốn nhà nước; theo học các lớp ngắn hạn, bồi dưỡng về giám sát, đánh giá đầu tư; các lớp về đấu thầu và đặc biệt do bản thân nhận thấy chưa đủ kiến thức cơ bản về xây dựng, do đó tôi đăng ký học kỹ sư xây dựng bằng 2 nhằm tích lũy kiến thức tốt hơn để bổ trợ cho công việc kiểm tra, giám sát đánh giá dự án đầu tư được tốt hơn, hiệu quả hơn.

 

 

 

Câu 6: Nhận thức cơ bản về công tác tư tưởng? Một số vấn đề về công tác tại đơn vị? Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng?

1/ Khái niệm:

Công tác tư tưởng là hoạt động có mục đích của một giai cấp, một chính đảng, nhằm hình thành, phát triển, truyền bá hệ tư tưởng của giai cấp trong quần chúng, thúc đẩy quần chúng đi tới hành động.

Công tác tư tưởng của Đảng được hiểu là hoạt động lãnh đạo quan trọng hàng đầu của Đảng trong việc xác lập và phát triển hệ tư tưởng của Đảng; nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn; truyền bá, giáo dục hệ tư tưởng, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước nhằm hình thành thế giới quan, phương pháp nhận thức khoa học, hình thành tính tích cực chính trị cho cán bộ đảng viên và các tầng lớp nhân dân, tạo sự thống nhất tư tưởng trong Đảng, sự đồng thuận xã hội; cổ vũ, động viên tinh thần sáng tạo cách mạng của nhân dân, thực hiện thắng lợi mục tiêu, lý tưởng của Đảng; đấu tranh chống các thế lực thù địch trên mặt trận tư tưởng, góp phần xây dựng nền văn hóa mới, con người mới XHCN; quảng bá hình ảnh tươi đẹp của đất nước, con người Việt Nam ra cộng đồng quốc tế.

Như vậy, nội dung cơ bản của công tác tư tưởng là xác lập thế giới quan và hệ tư tưởng của GCCN nhằm tác động vào ý thức của con người, với mục đích nhằm trang bị cho cán bộ đảng viên, nhân dân nhận thức và hành động đúng, tạo ra sự đồng thuận trong Đảng và xã hội.

Quan điểm của Đảng

–    Làm công tác tư tưởng để thống nhất từ ý chí đến hành động.

–    Là bộ phận quan trọng trong công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức

–    Là một trong những phương thức lãnh đạo của Đảng (gương mẫu, tiêu biểu, nâng cao sức chiến đấu của Đảng) Đảng phải ở trong dân.

–    Là vũ khí sắc bén để chống lại các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.

2/ Nội dung công tác tư tưởng:

Một là, tăng cường giáo dục, nâng cao trình độ chính trị, tư tưởng, thống nhất nhận thức và hành động, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị ở cơ sở.

Nâng cao trình độ nhận thức chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng là nhiệm vụ quan trọng hành đầu của công tác tư tưởng nhằm tạo ra sự nhất trí cao về chính trị, tinh thần, làm cơ sở cho sự đoàn kết, thống nhất trong hành động, thực hiện thắng lợi nghị quyết của Đảng, nhiệm vụ chính trị ở cơ sở. Tổ chức Đảng là nơi thường xuyên và trực tiếp giáo dục quan điểm chủ trương, đường lối của Đảng, giáo dục, quán triệt nhiệm vụ chính trị của cơ sở, với những nội dung, hình thức và phương pháp thích hợp cho từng đối tượng.

Nội dung chính trong công tác giáo dục chính trị tư tưởng trong những năm tới là:

– Tăng cường và đổi mới theo hướng hiệu quả, thiết thực, công tác giáo dục lý luận chính trị, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người dân hiểu, từ đó kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thấm nhuần các quan điểm đổi mới của Đảng.

– Nắm rõ quan điểm, đường lối của Đảng và các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Ban chấp hành Trung ương (BCH TW), Bộ Chính trị, Ban Bí thư, nghị quyết của tổ chức đảng các cấp, ở địa phương, cơ sở; đổi mới phương pháp học tập, quán triệt theo hướng tích cực, tăng cường thảo luận, tự học là chính, tăng cường kiểm tra, giám sát, đặc biệt là việc thực hiện trong thực tiễn.

– Giáo dục, nâng cao nhận thức về thời cơ và thách thức của đất nước, của từng địa phương, ngành, cơ sở trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.

– Giáp dục, nâng cao cảnh giác cách mạng, chống âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, phá hoại về tư tưởng, chính trị của các thế lực thù đicạh, cơ hội.

– Giáo dục tinh thần đoàn kết đoàn kết dân tộc, tin h thần tương thân, tương ái, hướng về cội nguồn, làm việc thiện, giữ gìn truyền thống, đạo lý tốt đẹp của dân tộc,v.v…

Hai là, tuyên truyền, cổ vũ, động viên quần chúng góp phần đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị.

Chi bộ đưa đường lối của Đảng vào cuộc sống, biến nghị quyết của Đảng thành hiện thực, thông qua việc giải quyết những vấn đề trọng tâm, cấp bách của cơ quan; tổng kết thực tiễn, vận dụng đường lối, chính sách chung của Đảng cào việc thực hiện chủ trương, giải pháp kinh tế – xã hội ở cơ sở.

Chi bộ phải động viên mọi cán bộ, đảng viên và quần chúng đoàn kết thống nhất, phát huy truyền thống, khắc phục khó khăn, huy động mọi nguồn lực để hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Chi bộ giải đáp kịp thời, đúng đắn những vướng mắc về nhận thức, định hướng chính trị trong xây dựng đời sống văn hóa, thực hiện các chính sách xã hội, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước cơ sở; chủ động giải quyết những mâu thuẫn nảy sinh từ cơ sở, không để phát triển, lan rộng thành vấn đề tư tưởng chính trị.

Ba là, tăng cường giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng.

Chi bộ, đảng bộ cần tăng cường giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng.

Thường xuyên và trực tiếp quản lý, giáo dục, theo dõi diễn biến, sự hình thành những phẩm chất đạo đức mới của cán bộ, đảng viên và quần chúng.

Điều 23 Điều lệ Đảng quy định tổ chức cơ sở đảng có nhiệm vụ: “…thường xuyên giáo dục, rèn luyện và quản lý cán bộ, đảng viên, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, tính chiến đấu, trình độ kiến thức, năng lực công tác…”.

– Tiếp tục tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả việc học tập và làm theo tấm gương đạo dức Hồ Chí Minh theo tinh thần Chỉ thị số 03-CT/TW, ngày 14/5/2011 của Bộ chính trị.

– Chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho đảng viên thông qua việc phân công, giao nhiệm vụ, rèn luyện qua thực tiễn, qua đấu tranh phê bình và tự phê bình, tiếp thu ý kiến đóng góp xây dựng của quần chúng, qua nêu gương điển hình tiên tiến.

– Trong công tác giáo dục, xây dựng đạo đức mới, cần coi trọng các nguyên tắc “xây” đi đôi với  “chống”, lấy “xây” là chính; nói đi đôi với làm, nêu gương người tốt, việc tốt, người thực, của chi bộ, đảng bộ, của địa phương, cơ sở; phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.

– Lãnh đạo thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở, đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; định kỳ báo cáo trước nhân dân chương trình hoạt động của tổ chức đảng, chính quyền và tổ chức lấy ý kiến đóng góp xây dựng Đảng, phê bình cán bộ, đảng viên của quần chúng.

– Hướng dẫn nhân dân phát hiện, đấu tranh ngăn chặn các biểu hiện quan liêu, tham nhũng, lãng phí của cán bộ, đảng viên, công chức ở địa phương, cơ sở; tổ chức tốt việc tiếp dân và giải quyết các khiếu nại, tố cáo của dân.

– Thông qua sinh hoạt đảng, đoàn thể, các cuộc họp nhân dân để tuyên truyền, nêu gương “người tốt, việc tốt”, phê bình những việc sai trái, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật, trái với đạo đức xã hội, vi phạm các quy ước tập thể, cộng đồng.

– Phát huy sức mạnh tổng hợp cảu các lực lượng làm công tác tư tưởng, kết hợp các biện pháp tư tưởng, chính trị, tổ chức, kiểm tra, kinh tế, hành chính; kết hợp phong trào quần chúng với việc thi hành các chính sách, pháp luật, để góp phần ngăn chặn sự suy thoái về đạo đức, lối sống và bài trừ các tệ nạn xã hội.

Bốn là, công tác tư tưởng trực tiếp thực hiện nhiệm vụ xây dựng đời sống văn hóa, bồi dưỡng, xây dựng con người mới với những đức tính, phẩm chất tốt đẹp.

Xây dựng đời sống văn hóa, bồi dưỡng, xây dựng con người mới ở cơ sở là nhiệm vụ cơ bản, thường xuyên của công tác tư tưởng.

Đại hội XI của Đảng xác định: “làm cho các giá trị văn hóa thấm sâu vào mọi mặt đời sông, được cụ thể trong sinh hoạt, công tác, quan hệ hằng ngày của cộng đồng và từng con người, tạo sức đề kháng với các sản phẩm độc hại. Tiếp tục đẩy mạnh việc giáo dục, bồi dưỡng đạo đức, lối sống có văn hóa; xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, tang, lễ hội; ngăn chặn và đẩy lùi các hủ tục, bạo lực, gây rối trật tự công cộng, mại dâm, ma túy, cờ bạc..”

– Quán triệt quan điểm, chủ trương trên, chi bộ thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức xây dựng con người mới với những đức tính tốt đẹp, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hóa của con người Việt nam.

– Xây dựng đời sống văn hóa tinh thần lành mạnh, đi đôi với đấu tranh chống tệ nạn xã hội, chống mê tín, dị đan và các biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, lối sống thực dụng, xa hoa, trụy lạc…

Năm là, công tác tư tưởng trực tiếp tham gia cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch vững mạnh.

Đảng đã xác định, phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng đảng là nhiệm vụ then chốt. Chi bộ coi trọng, đẩy mạnh cuộc vận động xay dựng, chỉnh đốn Đảng trên lĩnh vực tư tưởng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng trong tình hình hiện nay”, chú trọng làm tốt hơn việc nêu gương những người tốt, việc tốt; lấy nhân tố tiêu cực để đẩy lùi tiêu cực; đồng thời phê phán, đấu tranh với những biểu hiện sa sút về tư tưởng chính trị, vô trách nhiệm, vụ lợi cá nhân, vi phạm những chuẩn mực đạo, lối sống…

Chi bộ thực hiện nghiêm túc về chế độ học tập lý luận chính trị trong Đảng, thực hiện có hiệu quả kế hoạch học tập chính trị, sinh hoạt tư tưởng ở từng cơ sở. Đặc  biệt, các chi bộ, đảng bộ cơ sở cần thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tự phê bình và phê bình; thường xuyên nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, xây dựng chi bộ, đảng bộ trong sạch, vững mạnh; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của chi bộ, đảng bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức trong sạch, liêm chính; xây dựng và củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với quần chúng.

Sáu là, chủ động tiến công, triển khai có hiệu quả cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng; thực hiện nghiêm túc những chỉ thị, quy định của Đảng về bảo vệ Đảng, xử lý kịp thời những thông tin bịa đặt, hoạt động tán phát tài liệu, thư nặc danh, mạo danh có nội dung xấu.

Trên cơ sở giáo dục tinh thần cảnh giác cách mạng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng, chi bộ thực hiện:

– Không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, vững vàng trước mọi thử thách, khó khăn cho cán bộ, đảng viên, lấy xây dựng nội bộ trong sạch, vững mạnh làm phương hướng cơ bản.

– Tuyên truyền, biểu dương cổ vũ những nhân tố mới, những điển hình tiên tiến, đi đôi với đấu tranh, phê phán những quan điểm và hành vi lệch lạc, sai trái, thù địch.

Bảo vệ Đảng là nhiệm vụ có tầm quan trọng đặc biệt hiện nay.

Vì vậy chi bộ quán triệt sâu sắc những chỉ thị, quy định vệ bảo vệ Đảng, trước hết là những quy định về những điều đảng viên không được làm, trong đó có quy định đảng viên không được nói, làm trái với Cương lĩnh, đường lối của Đảng, không truyền bá quan điểm cá nhân trái với quan điểm của Đảng, gây hoang mang, hoài nghi trong Đảng và quần chúng

Đối với những hành vi vi phạm như: tung thông tin bịa đặt, tán phát tài liệu, thư nặc danh, mạo danh có nội dung xấu…, cần xác định rõ tính chất, mức độ phạm vi ảnh hưởng, ý đồ của người thực hiện, để có biện pháp đấu tranh thích hợp. Cần phân biệt ý đồ gây rối, phá hoại có ý thức chính trị rõ ràng, với sự ấu trĩ về chính trị do thiếu thông tin, hay do nhận thức kém mà vô tình tiếp tay cho kẻ xấu, để có cách xử lý thích hợp. Về nguyên tắc, phải nghiêm khắc và kiên quyết, không khoan nhượng về tư tưởng, chính trị, vạch trần nội dung tư tưởng sai trái trong tài liệu tán phát và hành động vi phạm kỷ luật, vi phạm pháp luật, làm cho mọi cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức rõ những thông tin như vậy là sai trái, không nên tin, không phổ biến lại cho người khác. Đồng thời, các chi bộ, đảng bộ cơ sở cần có những biện pháp xử lý về mặt tổ chức, hành chính theo quy định kỷ luật của Đảng và pháp luật Nhà nước.

*/ Nguyên tắc công tác tư tưởng

– Nguyên tắc tính Đảng:

Tính Đảng là nguyên tắc cơ bản nhất của công tác tư tưởng, biểu hiện ở chỗ, công tác tư tưởng luôn luôn đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, quan điểm, đường lối của Đảng; bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đấu tranh không khoan nhượng với những tư tưởng thù địch, phản khoa học, đi ngược lại với lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc. Công tác tư tưởng là một bộ phận trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện, liên tục, rộng khắp của Đảng. Sự lãnh đạo của Đảng trong công tác tư tưởng “càng triệt để càng tốt” và “không trừ một ngoại lệ nào”, vì như Lênin nói: “Ở đâu không có tư tưởng vô sản thì ngay lập tức lấp vào đó là tư tưởng tư sản, không có tư tưởng trung gian nào”.

– Nguyên tắc tính khoa học:

Tính khoa học của công tác tư tưởng biểu hiện ở chỗ, công tác tư tưởng được tiến hành trên cơ sở khoa học, tuân theo các quy luật vận động, biến đổi của lĩnh vực tư tưởng. Nguyên tắc tính khoa học yêu cầu công tác tư tưởng được tiến hành theo quan điểm lịch sử – cụ thể, phù hợp với trình độ đối tượng và đáp ứng nhu cầu và định hướng thông tin của đối tượng. Công tác tư tưởng phải sử dụng các phương tiện công tác ngày càng hiện đại.

– Nguyên tắc tính thống nhất lý luận với thực tiễn:

Thống nhất giữa lý luận với thực tiễn trong công tác tư tưởng thể hiện ở chỗ công tác tư tưởng phải xuất phát từ thực tiễn và quay trở về phục vụ thực tiễn.

Đồng thời, thực tiễn công tác tư tưởng phải được soi sáng, định hướng bằng lý luận, được chỉ đạo, tổ chức thực hiện một cách khoa học, gắn lý luận với thực tiễn cách mạng. Tổng kết thực triễn là phương pháp căn bản để thực hiện sự thống nhất giữa lý luận với thực tiễn trong công tác tư tưởng, khắc phục chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa giáo điều.

Thực hiện đúng đắn và đầy đủ những nguyên tắc trên là yêu cầu chung của công tác tư tưởng và có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng.

*/ Phương châm công tác tư tưởng

Phương châm công tác tư tưởng là những định hướng có tính chỉ đạo trong hoạt động công tác tư tưởng ở các cấp, các ngành. Phương châm công tác tư tưởng bao gồm 6 nội dung chủ yếu là:

– Công tác tư tưởng phải gắn chặt với thực hiện nhiệm vụ chính trị, với phong trào cách mạng của quần chúng, với từng đối tượng.

– Kết hợp chặt chẽ ba nội dung giáo dục: Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; kiến thức, khoa học, kỹ thuật, công nghệ; phẩm chất và đạo đức cách mạng. Kết hợp giáo dục lý luận, quan điểm cơ bản với giáo dục tình hình và nhiệm vụ trước mắt.

– Kết hợp công tác tư tưởng với công tác tổ chức và công tác kiểm tra.

– Kết hợp giáo dục tư tưởng trong học tập với việc rèn luyện trong thực tiễn cách mạng.

– Kết hợp giáo dục tư tưởng trong nội dung sinh hoạt của tất cả các tổ chức; kết hợp công tác tư tưởng trong Đảng với công tác tư tưởng trong xã hội.

– Kết hợp bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm cách mạng với phê phán triệt để những biểu hiện tư tưởng phi vô sản; biểu dương ưu điểm đi đôi với phê bình nghiêm khắc khuyết điểm.

3/ Phương thức tiến hành công tác tư tưởng:

– Nhóm phương pháp dùng lời nói: giảng bài, báo cáo, thuyết trình, kể chuyện…

– Nhóm phương pháp trực quan: chiếu phim, triển lãm, panô…

– Nhóm phương pháp thực tiễn: tổ chức tham quan di tích, tổ chức lễ hội…

Đối với cơ sở, công tác tư tưởng có thể vận dụng linh hoạt:

– Nêu gương:

– Thuyết phục:

– Tăng cường các hoạt động thực tiễn:

– Tổ chức tốt …

4/ Công tác tư tưởng ở đơn vị:

Tôi hiện đang học tập, công tác tại Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh. Đơn vị tôi luôn tổ chức triển khai học tập, quán triệt nghị quyết, chỉ thị của Đảng đến mọi thành phần cán bộ công chức-viên chức trong Sở thông qua các buổi học tập tập trung trên hội trường do Công Đoàn phối hợp với Đoàn Thanh niên tổ chức; của cấp Ủy cấp trên đến từng Đảng viên, để mỗi Đảng viên, cán bộ công chức – viên chức trong Sở luôn nhận thức rõ quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của NN và thông qua đó thấy được thuận lợi, khó khăn, thời cơ, thách thức trong quá trình phát triển của đất nước, thấy được những trọng trách do Đảng, nhà nước giao cho Sở Kế hoạch và Đầu tư, thấy được tầm quan trọng của mỗi nổ lực của mỗi công chức viên chức trong Sở đóng góp vào kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị của Sở Kế hoạch và Đầu tư. Trên cơ sở đó, đã cụ thể hóa thành chương trình hành động của Sở Kế hoạch và Đầu; của từng phòng, ban trong đơn vị mình thông qua việc giáo dục, định hướng tư tưởng của cán bộ, công chức viên chức nhằm làm cho cán bộ, công chức viên chức tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng; tin vào đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước và từ đó đề cao tinh thần trách nhiệm, cảnh giác với các âm mưu, thủ đoạn “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.

5/ Biện pháp cần thực hiện để nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác tư tưởng:

Một là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, vai trò của cơ sở, đẩy mạnh công tác tư tưởng trong tình mới.

Lãnh đạo tiến hành công tác tư tưởng luôn là một trong tâm của công tác cấp ủy, của chi bộ và các tổ chức, đoàn thể. Cấp ủy, trước hết là bí thư, người đứng đầu cơ quan, chính quyền, đoàn thể cần có chương trình, kế hoạch lãnh đạo, chỉ đạo, tiến hành công tác tư tưởng. Định kỳ, đại diện cấp ủy nghe ý kiến phản ánh về tình hình tư tưởng, chính trị trong cán bộ, đảng viên và quần chúng; các tổ chức, đoàn thể. Từ đó cấp ủy tổng hợp và thống nhất nhận định, đánh giá tình hình tư tưởng, có chủ trương, biện pháp lãnh đạo về tư tưởng và chỉ đạo thực hiện thống nhất trong cơ quan.

Hai là, Mở rộng dân chủ, đồng thời giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật phát ngôn theo quy định.

Chi bộ cần lưu ý:

– Mở rộng dân chủ nói chung, dân chủ trong công tác tư tưởng nói riêng theo tư tưởng Hồ Chí Minh; tôn trọng và lắng nghe các ý kiến đề xuất, tâm tư nguyện vọng của quần chúng; phân tích tổng hợp, đánh giá đúng tình hình tư tưởng của từng đối tượng để xác định nội dung, hình thức, biện pháp giáo dục, giải quyết đúng đắn, phù hợp; động viên và tạo điều kiện để mọi người phát huy tự do tư tưởng, góp ý kiến vào sự lãnh đạo của chi bộ, đảng bộ, tham gia làm công tác tư tưởng theo khả năng, nhất là tham gia tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng quán triệt và thực hiện đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, nhiệm vụ chính trị ở cơ sở.

– Thực hiện nghiêm về kỷ luật phát ngôn; kịp thời phát hiện và xử lý những biểu hiện tự do tùy tiện, lợi dụng dân chủ để truyền bá các quan điểm trái với quan điểm đường lối của Đảng, gây hoài nghi, dao động, mâu thuẫn, mất đoàn kết trong tổ chức đảng và trong quần chúng.

6/ Liên hệ bản thân:

          – Có nhận thức tư tưởng vững vàng, quan điểm chính trị đúng đắn, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, tích cực tham gia làm tốt công tác tư tưởng cho gia đình mình và quần chúng xung quanh mình.

– Phải nói và làm đúng tinh thần nghị quyết của Đảng; nói đi đôi với làm, thực sự là tấm gương về mọi mặt cho quần chúng noi theo; đồng thời làm tốt việc giải quyết tư tưởng cho bản thân, gia đình và những người xung quanh.

– Là cán bộ, chưa là đảng viên nhưng phải thực sự cống hiến hết mình vì sự nghiệp chung của tổ quốc, thực sự chiến sỹ trên mặt trận tư tưởng giúp Đảng, nhà nước làm công tác tư tưởng cho quần chúng, nhân dân xung quanh mình.

– Luôn học tập đạo đức, tư tưởng Hồ Chí Minh để tự rèn luyện mình đồng thời có phản biện, phản ánh với các tổ chức Đảng ở cơ sở khi phát hiện các trường hợp Đảng viên thiếu gương mẫu, tha hóa đạo đức, lối sống nhằm ngăn chặn kịp thời tiêu cực tại đơn vị.

Câu 7: Phân tích hình thức, phương pháp kiểm tra, giám sát? Liên hệ công tác kiểm tra, giám sát tại chi bộ, đảng bộ? Đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát?

1/ Khái niệm:

– Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng là hoạt động thường xuyên của toàn Đảng, được tiến hành đối với tổ chức Đảng và đảng viên, nhằm theo dõi, xem xét tình hình chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của NN; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức đảng và đảng viên; giải quyết các vấn đề trong sinh hạt và nội bộ đảng; để đánh giá , nhận xét về mỗi tổ chức đảng và ĐV; góp phần hoàn thiện quy trình lãnh đạo, giữ vững kỷ luật; bảo đảm các quyết định được thực hiện nghiêm túc và đạt kết quả cao.

2/ Vị trí, vai trò của công tác kiểm tra, giám sát:

– Kiểm tra, giám sát là một tất yếu KQ, là một biểu hiện nghiêm túc của họat động có ý thức của mọi tổ chức và con người trong xã hội. Bởi vì, muốn đạt được kết quả trong thực tiễn, phải xem xét tình hình thực tế để nhận xét, đánh giá, có nghĩa là phải kiểm tra, giám sát; phải kiểm tra, giám sát toàn bộ từ ý định, chủ trương, kế họach…

– Kiểm tra, giám sát là một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng, là bộ phận quan trọng trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng.

Sự nghiệp cách mạng lâu dài, gian khổ, phức tạp, quyết liệt đòi hỏi Đảng phải có đường lối, chính sách đúng, có năng lực tổ chức thực hiện cao, đòi hỏi phải tiến hành kiểm tra, giám sát thường xuyên, kịp thời, có hiệu quả. Ngay từ khi mới thành lập và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng và tiến hành thường xuyên công tác kiểm tra, giám sát. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII khẳng định: “Công tác kiểm tra có vị trí cực kỳ quan trọng trong toàn bộ hoạt động lãnh đạo của Đảng”

Thực tiễn lãnh đạo của Đảng ta từ khi thành lập đến nay đã khẳng định kiểm tra, giám sát là một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng, một bộ phận quan trọng trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng.

– Kiểm tra, giám sát là nhiệm vụ trực tiếp, thường xuyên của toàn Đảng. (157)

Khẳng định công tác kiểm tra, giám sát là nhiệm vụ trực tiếp, thường xuyên của mọi tổ chức đảng là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, không chỉ để khắc phục những khuyết điểm, yếu kém về nhận thức và hành động trong việc thực hiện nhiệm vụ công tác kiểm tra, giám sát mà còn làm cho Đảng thực hiện đầy đủ các chức năng, nhiệm vụ của mình, góp phần tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng, đảm bảo lãnh đạo thắng lợi sự nghiệp cách mạng.

– Trong lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh phải coi trọng và tiến hành tốt công tác kiểm tra, giám sát.

  1. Nhiệm vụ của công tác kiểm tra, giám sát

          * Cấp ủy các cấp tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao chất lượng nghiên cứu các NQ, chỉ thị, quy định của Đảng để các tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên nắm vững, tự giác chấp hành; đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực, suy thóai trong đảng. Cấp ủy các cấp, nhất là chi bộcần tăng cường quản lý, giáo dục , rèn luyện cán bộ , đảng viên để chủ động phòng ngừa, ngăn chặn xảy ra vi phạm vi phạm hoặc không để tái phạm, góp phần chủ động thực hiện có hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng.

          * Tập trung kiểm tra, giám sát việc chấp hành các chủ trương, đường lối, NQ, chỉ thị, quy định của đảng về các nội dung, lĩnh vực sau:

          – Lĩnh vực tư tưởng chính trị, quản lý báo chí: Kiểm tra, giám sát việc thực hiện quan điểm, đường lối của Đảng, việc thi hành điều lệ đảng, các quy định của đảng, pháp luật của NN trong công tác tư tưởng nói chung và hoạt động báo chí nói riêng…

          – Về chấp hành nguyên tắc tổ chức và hoạt động của đảng: Kiểm tra, giám sát việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; chấp hành quy chế làm việc, chế độ công tác; thực hiện dân chủ trong đảng, giữ gìn đòan kết nội bộ…

          – Lĩnh vực kinh tế-tài chính: Kiểm tra, giám sát việc thực hành tiết kiệm, phòng, chống tham nhũng, lãng phí trong các khâu cấp và sử dụng vốn thuộc ngân sách NN…

          – Lĩnh vực hành chính, tư pháp: Kiểm tra, giám sát việc lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện cải cách hành chính …

          – Trong công tác tổ chức và cán bộ: Kiểm tra, giám sát về tuyển dụng, quy họach, luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt, bố trí, sử dụng, khen thưởng và thực hiện chính sách cán bộ …

          – Kiểm tra, giám sát việc chỉ đạo giải quyết khiếu nại, tố cáo của đảng viên và nhân dân; việc thực hiện Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở cơ sở.

  1. Hình thức và phương pháp kiểm tra, giám sát ở cơ sở Đảng

4.1. Các hình thức kiểm tra, giám sát

Tùy vào yêu cầu của nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng và nội dung kiểm tra, giám sát để lựa chọn hình thức kiểm tra, giám sát thích hợp.

a– Kiểm tra, giám sát thường xuyên:

Kiểm tra, giám sát là chức năng lãnh đạo, là xây dựng Đảng, mà chức năng lãnh đạo và xây dựng Đảng phải được tiến hành thường xuyên. Do đó, kiểm tra, giám sát phải được tiến hành một cách thường xuyên, gắn chặt với yêu cầu nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng.

Kiểm tra, giám sát thường xuyên sẽ thể hiện được tính chủ động, tính chỉ đạo, đôn đốc, thúc đẩy tổ chức thực hiện. Có như vậy mới kịp thời phát huy ưu điểm, phát hiện những biểu hiện lệch lạc, sai trái để có biện pháp điều chỉnh cho phù hợp.

Các tổ chức đảng giám sát thông qua hoạt động thực tế hàng ngày của tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên trong việc thực hiện nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước, trong sinh hoạt đảng, giữ gìn phẩm chất, đạo đức của đảng viên; qua tự phê bình và phê bình; qua kiểm tra, phân tích chất lượng đảng viên; qua phê bình, góp ý của quần chúng… để đánh giá ưu điểm, khuyết điểm của đảng viên và tổ chức đảng cấp dưới, kịp thời xem xét, giải quyết những trường hợp có dấu hiệu vi phạm.

b– Kiểm tra định kỳ:

Kiểm tra định kỳ là một hình thức kiểm tra mà các tổ chức đảng từ cấp cơ sở đến cấp Trung ương đều cần và có điều kiện để tiến hành. Tuỳ vào yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng, tình hình thực tế trong từng thời kỳ mà xác định nội dung, đối tượng và thời gian định kỳ kiểm tra cho phù hợp.

Về nội dung kiểm tra định kỳ, có thể kiểm tra toàn diện đối với tổ chức đảng và đảng viên, có thể chỉ kiểm tra chuyên sâu một số nội dung cần thiết…

  1. Kiểm tra đột xuất, giám sát chuyên đề:

Hình thức kiểm tra, giám sát này có tính ngăn chặn cao, được áp dụng khi có sự việc đột xuất xảy ra cần phải tiến hành kiểm tra, giám sát hoặc khi có yêu cầu của tổ chức đảng cấp trên.

Đối tượng kiểm tra đột xuất, giám sát chuyên đề có số lượng ít, nội dung kiểm tra, giám sát tập trung vào một số vấn đề nhất định; yêu cầu của kiểm tra đột xuất, giám sát chuyên đề là phải xem xét, kết luận hoặc đánh giá chính xác để ngăn chặn, điều chỉnh hoặc xử lý khuyết điểm, vi phạm. Do đó, tùy mục đích, đối tượng, nội dung, yêu cầu cần kiểm tra, giám sát mà có kế hoạch tiến hành cho phù hợp.

4.2. Phương pháp kiểm tra, giám sát

– Dựa vào các thư từ, kiến nghị, tin tức trên các phương tiện thông tin đại chúng, số liệu thống kê, biên bản báo cáo của chi ủy, đảng ủy, cá nhân đảng viên để phân tích, đánh giá, kết luận.

– Dựa vào tổ chức đảng, phát huy tinh thần tự giác của tổ chức đảng và đảng viên, trách nhiệm xây dựng Đảng của quần chúng, chủ động phối hợp với các cơ quan thanh tra, duy trì, bảo vệ pháp luật và làm tốt công tác thẩm tra, xác minh cũng là phương pháp cơ bản của công tác kiểm tra, giám sát.

Để nắm chắc tình hình, phân tích đánh giá kết luận vụ việc khách quan, chính xác, nhanh chóng, chủ thể kiểm tra, giám sát cần sử dụng các phương pháp kiểm tra trực tiếp và gián tiếp. Phương pháp kiểm tra trực tiếp quan trọng nhất là kiểm tra tại chỗ. Nó vừa bảo đảm tính tập trung cao, vừa phát huy tính dân chủ rộng rãi, trên cơ sở đó, giúp chủ thể nắm bắt được sự viêc chính xác nhất để có biện pháp xử lý tối ưu.

5/ Liên hệ việc thực hiện các hình thức và phương pháp kiểm tra giám sát tại chi bộ:

Đối với đảng viên, nội dung kiểm tra, giám sát tập trung vào việc chấp hành nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế của cấp uỷ cấp trên và cấp mình; Kiểm tra, giám sát việc thực hiện Điều lệ Đảng, việc chấp hành Quy định 47-QĐ/TW ngày 01 tháng 11 năm 2011 của Ban chấp hành trung ương quy định về những điều đảng viên không được làm; Kiểm tra việc chấp hành Quy định 76-QĐ/TW ngày 15 tháng 6 năm 2000 của Ban chấp hành trung ương quy định về việc đảng viên đang công tác ở các cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp thường xuyên giữ mối liên hệ với chi uỷ, đảng uỷ cơ sở và gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú; kiểm tra, giám sát việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, việc thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao và kiểm tra thẻ đảng. Qua kiểm tra, giám sát chi bộ kịp thời phát hiện, uốn nắn, nhắc nhở Đảng viên nghiêm túc khắc phục những hạn chế, sửa chữa những thiếu sót, khuyết điểm và đồng thời phát huy những ưu điểm.

6/ Biện pháp để thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát tại chi bộ  

Công tác kiểm tra phải được tiến hành công khai, dân chủ, khách quan, thận trọng và chặt chẽ theo đúng nguyên tắc, phương pháp công tác Đảng. Tổ chức Đảng và đảng viên phải chịu sự kiểm tra, giám sát của Đảng và chịu sự giám sát của nhân dân.

Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát phải gắn chặt với công tác tư tưởng, công tác tổ chức và đổi mới, phương thức lãnh đạo của Đảng, phải thực hiện toàn diện, đồng bộ có hiệu lực, hiệu quả, góp phần xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Đảng.

Thực hiện đồng bộ giữa công tác kiểm tra và công tác giám sát, giám sát phải mở rộng, kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm để chủ động ngăn ngừa vi phạm, kịp thời phát hiện thiếu sót, khuyết điểm, vi phạm từ lúc mới manh nha.

Để thực hiện có hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng, cần tập trung thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau:

Một là, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức của các cấp ủy, tổ chức đảng, Ủy ban kiểm tra, trước hết là người đứng đầu cấp ủy về công tác kiểm tra, giám sát Đảng.

Hai là, xây dựng, hoàn thiện các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước phục vụ công tác kiểm tra, giám sát Đảng.

Ba là, đổi mới tăng cường công tác kiểm tra, giám sát Đảng của cấp ủy, tổ chức đảng, Ủy ban kiểm tra các cấp và chi bộ, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả.

Bốn là, hoàn chỉnh quy trình, phương pháp kiểm tra, giám sát Đảng.

Năm là, kiện toàn tổ chức bộ máy cơ quan Ủy ban kiểm tra và tăng cường cán bộ các cấp bảo đảm tương xứng với chức năng, quyền hạn và nhiệm vụ được giao.

Sáu là, tăng cường đầu tư, hiện đại hóa cơ sở vật chất, kỹ thuật, phương tiện làm việc cho công tác kiểm tra, giám sát của Đảng.

Bảy là, nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về công tác kiểm tra, giám sát Đảng.

* Liên hệ bản thân:

– Là một cán bộ công chức nhà nước, tôi luôn chấp hành tốt đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của nhà nước; chấp hành và thực hiện theo chủ trương Nghị quyết của Đảng và sự quản lý, phân công của tổ chức.

– Chấp hành nghiêm chỉnh nguyên tắc tập trung dân chủ trong mọi công tác, luôn đề cao và thực hiện phê bình, tự phê bình nhằm tự hoàn thiện bản thân, phấn đấu đứng vào hàng ngũ của Đảng để đem sức mình phụng sự tổ quốc và nhân dân.

– Luôn học tập đạo đức, tư tưởng Hồ Chí Minh để tự rèn luyện mình đồng thời phải có phản biện, phản ánh với các tổ chức Đảng ở cơ sở khi phát hiện các trường hợp Đảng viên thiếu gương mẫu, tha hóa đạo đức, lối sống nhằm ngăn chặn kịp thời tiêu cực tại đơn vị.

– Tôi luôn ý thức rằng kiểm tra, giám sát công tác cán bộ và cán bộ là yếu tố quan trọng để kiểm soát quyền lực và xây dựng được đội ngũ cán bộ “vừa hồng vừa chuyên”, vì mọi thành bại đều do cán bộ mà ra. Do đó, với cương vị là một cán bộ thực hiện công tác giám sát, đánh giá đầu tư, tôi luôn có ý thức nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ để thực hiện tốt công tác được giao, kịp thời phát hiện các sai phạm tại các đơn vị, đẩy lùi tiêu cực, “lợi ích nhóm”, “sân sau”, trục lợi trong quản lý, sử dụng ngân sách, tài sản công, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, vốn đầu tư, đất đai, …

Câu 8: Phân tích tính chất sinh hoạt chi bộ? Liên hệ tại chi bộ đồng chí? Giải pháp nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ?

  1. Khái niệm:

Sinh hoạt chi bộ là các hoạt động tập thể của toàn thể đảng viên hoặc đại biểu để thảo luận và quyết định những vấn đề cần thiết, gồm các cuộc họp chi bộ thường kỳ, các hội nghị chi bộ.

  1. Vị trí, Vai trò của sinh hoạt chi bộ:

* Vị trí:

Điều 21 của Điều lệ Đảng xác định: “Chi bộ là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở”. Với vị trí là nền tảng của Đảng, chi bộ có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự vững mạnh và năng lực lãnh đạo của Đảng. Bởi vì:

– Chi bộ cơ sở là nơi trực tiếp đưa đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nghị quyết, chỉ thị của tổ chức đảng cấp trên đến với nhân dân và tuyên truyền, giáo dục để nhân dân hiểu và thực hiện tốt.

– Chi bộ cơ sở là cầu nối liền giữ Đảng với nhân dân, trực tiếp nắm bắt tâm tư, tình cảm, nguyện vọng chính đáng của nhân dân để giải quyết kịp thời hoặc phản ảnh lên cấp trên để giải quyết, là nơi ghi nhận những phán ảnh của người dân để Đảng và Nhà nước hòan thiện đường lối, chủ trương và chính sách, phát luật.

– Chi bộ trực tiếp chăm lo đời sống mọi mặt của nhân dân, là chỗ dựa, niềm tin của nhân dân.

* Vai trò:

– Sinh hoạt chi bộ có vai trò rất quan trọng đối với việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của chi bộ. Bởi vì, sinh hoạt chi bộ là diễn đàn dân chủ phát huy tính sáng tạo của đảng viên để tìm ra chủ trương, giải pháp nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ được giao; cũng qua sinh hoạt chi bộ, trình độ mọi mặt, năng lực công tác của từng đảng viên, cấp ủy, chi bộ được nâng lên, góp phần to lớn nâng cao năng lực lãnh đạo của chi bộ. (81-82)

– Sinh hoạt chi bộ có vai trò rất to lớn đối với việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của chi bộ và đường lối, nghị quyết của Đảng, pháp luật của NN, nghị quyết, chỉ thị của tổ chức đảng cấp trên. Bởi vì, các chủ trương giải pháp về thực hiện nhiệm vụ chính trị của chi bộ được bàn bạc và quyết định tại các cuộc sinh hoạt chi bộ là nhân tố quan trọng để tổ chức thực hiện đạt kết quả tốt. Song sinh hoạt chi bộ còn bàn bạc, quyết định phân công nhiệm vụ cho cán bộ, đảng viên về thực hiện nhiệm vụ chính trị. (83)

– Sinh hoạt chi bộ là hoạt động không thể thiếu nhằm tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa chi bộ, chính quyền cơ sở với nhân dân. Bởi vì,

+ Chi bộ cơ sở là cầu nối liền giữ Đảng với nhân dân, trực tiếp nắm bắt tâm tư, tình cảm, nguyện vọng chính đáng của nhân dân để giải quyết kịp thời hoặc phản ảnh lên cấp trên để giải quyết, trực tiếp đưa đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước vào nhân dân, tuyên truyền, giáo dục để nhân dân hiểu và thực hiện. Thực hiện tốt những điều đó thì mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân được tăng cường và bền chặt

+ Thông qua sinh hoạt chi bộ có chất lượng, chi bộ sẽ đề ra được những giải pháp quan trọng, khả thi nâng cao đời sống của nhân, uốn nắn kịp thời những biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền và các biểu hiện khác không đúng đắn với nhân dân. Điều đó làm cho quan hệ mật thiết giữa chi bộ, cán bộ, đảng viên đối với nhân dân ngày càng tăng cường.(84-85)

– Sinh hoạt chi bộ góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng cấp trên. Bởi vì, chi bộ là các tổ chức tạo nên tổ đảng cấp trên. Chi bộ vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, hoàn thành tốt nhiệm vụ thì tổ chức đảng cấp trên vững mạnh, hoàn thành tốt nhiệm vụ. Sinh hoạt chi bộ có chất lượng là nhân tố rất quan trọng để chi bộ có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, hoàn thành tốt nhiệm vụ, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng cấp trên.(85-86)

3/Tính chất sinh hoạt chi bộ (89)

– Tính lãnh đạo: trong sinh hoạt đảng viên phải bàn bạc, thảo luận một cách dân chủ những vấn đề cần giải quyết và ra được quyết nghị về những hoạt động của chi bộ thể hiện ở:

+ Định hướng được những hoạt động chủ yếu của đơn vị trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội, đảm bảo cho đơn vị phát triển trong một thời gian nhất định cũng như giải quyết kịp thời những vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn.

+ Chỉ rõ trách nhiệm quyền hạn của từng tổ chức, từng cán bộ, đảng viên.

+ Chỉ rõ chủ trương, biện pháp xây dựng chi bộ về chính trị, tư tưởng và tổ chức, bảo đảm lãnh đạo đơn vị thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị.

Để đảm bảo tính lãnh đạo của sinh hoạt chi bộ, cần thực hiện nghiêm chỉnh nguyên tắc tập trung dân chủ, mở rộng dân chủ trong sinh hoạt Đảng phải đi liền với tăng cường sự lãnh đạo tập trung thống nhất.

– Tính giáo dục: trình độ nhận thức của đảng viên thể hiện:

+ Qua mỗi kỳ sinh hoạt chi bộ, trình độ mọi mặt của đảng viên dần được nâng lên, ngày càng nhận thức sâu sắc hơn đường lối, chính sách của Đảng, mỗi đảng viên có thêm những kiến thức mới bổ ích, những kinh nghiệm thiết thực trong hoạt động thực tiễn. Qua mỗi kỳ sinh hoạt, người đảng viên tự nhận thấy vững vàng hơn trong công tác. Đó là điều kiện quan trọng để họ hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

+ Để đạt được điều đó, trong sinh hoạt chi bộ cần chú trọng nghiên cứu, thảo luận nghiêm túc các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên, tránh lối sinh hoạt qua loa, đại khái, hoặc chỉ giao nhiệm vụ nhưng không chú ý đến cung cấp thông tin, hạn chế việc phát huy tính chủ động, sáng tạo của đảng viên.

+ Tính giáo dục của sinh hoạt chi bộ còn được thể hiện ở việc nêu gương điển hình tiên tiến, gương đảng viên tiên phong gương mẫu và phê bình những sai lầm khuyết điểm của chi bộ, tổ chức đảng và của đảng viên.

– Tính chiến đấu: Thể hiện tính đảng trong sinh họat là phải gương mẫu tiên phong đi đầu trong việc tự phê bình và phê bình, cụ thể:

+ Sinh hoạt chi bộ phải nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng ưu điểm, thành tựu, phê phán nghiêm khắc những sai lầm, khuyết điểm của chi ủy, chi bộ và từng cán bộ, đảng viên và đề ra được biện pháp phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm.

+ Để nâng cao tính chiến đấu trong sinh hoạt chi bộ cần phát huy dân chủ nội bộ khi bàn bạc và quyết nghị mọi vấn đề thuộc phạm vi thuộc quyền hạn của chi bộ, thực hiện nghiêm túc quyền của đảng viên, duy trì thành nền nếp chế độ tự phê bình và phê bình trên tinh thần thẳng thắn, trung thực, khách quan, công tâm và trên tình đồng chí, tôn trọng lẫn nhau giữa những người cộng sản.

+ Cần tránh tình trạng né tránh, nể nang, lựa chiều khi phê bình và tình trạng đoàn kết một chiều. Cần xử lý kịp thời và nghiêm minh những người lợi dụng dân chủ tiến hành phê bình để đả kích, gây chia rẽ hoặc lợi dụng phê bình để trả thù cá nhân.

Muốn sinh họat chi bộ đạt chất lượng tốt cần đảm bảo ba tính chất nêu trên, ngoài ra cần chú ý đến tình đồng chí, thương yêu, tôn trọng lẫn nhau, giúp đỡ tận tình, tạo điều kiện để mỗi ĐV giải quyết những khó khăn, vươn lên trong công tác và trong đời sống.

4/ Liên hệ trong sinh hoạt chi bộ tại đơn vị:

* Ưu điểm:

Là một công đoàn viên, chưa đứng vào hàng ngũ của đảng, tuy nhiên, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ tại đơn vị, tiếp xúc với các đảng viên trong đơn vị, tôi nhận thấy: Tại các cuộc họp sinh hoạt chi bộ nói chung là có đảm bảo tính chiến đấu, tinh thần tự phê bình và phê bình mặc dù chưa phải là cao, có thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt đảng, nâng cao ý thức tổ chức, kỷ luật của đảng viên. Xây dựng chi bộ thật sự là hạt nhân lãnh đạo, thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục, quản lý, giám sát và rèn luyện đội ngũ đảng viên, góp phần khắc phục những hạn chế, khuyết điểm sau kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “ Một số vấn đề cấp bách về xây dựng đảng hiện nay”. Chi bộ và từng đảng viên thực hiện nghiêm túc, nền nếp chế độ sinh hoạt chi bộ hàng tháng theo quy định của Điều lệ Đảng; trong sinh hoạt chi bộ thực sự mở rộng và phát huy dân chủ, nhất là việc thảo luận, quyết định những vấn đề thuộc chức năng, nhiệm vụ của chi bộ và trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi của đảng viên, tạo được không khí cởi mở, chân thành để mọi cán bộ, đảng viên bày tỏ chính kiến, tâm tư, nguyện vọng của mình; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; nâng cao ý thức tổ chức, kỷ luật, đề cao tinh thần tự phê bình và phê bình, bảo vệ những đảng viên thẳng thắn đấu tranh chống các biểu hiện sai trái, tiêu cực, tăng cường sự đoàn kết, thống nhất và tình thương yêu đồng chí trong Đảng. Trong đó đảng viên là cán bộ lãnh đạo, quản lý của đơn vị gương mẫu trong sinh hoạt chi bộ để mọi người noi theo, đồng thời nhắc nhở các đảng viên khác thực hiện tốt quy định pháp luật nhà nước, điều lệ Đảng. Khi xác định nội dung sinh hoạt, chi bộ luôn bám sát vào nhiệm vụ chính trị của đơn vị, căn cứ vào sự chỉ đạo của Đảng bộ Sở. Từ đó mà nội dung sinh hoạt chi bộ luôn thiết thực, bảo đảm được tính thời sự của vấn đề và đáp ứng được yêu cầu mong muốn của đội ngũ đảng viên trong chi bộ.

– Đối với Bí thư và Phó bí thư chi bộ đều quan tâm đến chất lượng và hiệu quả sinh hoạt chi bộ nên đã xác định được nội dung, thời gian và thời điểm hợp lý với điều kiện hoạt động của đơn vị.

– Nội dung sinh hoạt chi bộ thiết thực, phong phú, phù hợp với đặc điểm, tình hình thực tế của đơn vị, đúng những nội dung theo Hướng dẫn 09-HD/BTCTW, ngày 02-03-2012 của Ban tổ chức Trung ương gắn chặt với việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị, đặc biệt là việc khắc phục những hạn chế, khuyết điểm của từng đảng viên sau đợt kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng đảng hiện nay”.

– Mở rộng hình thức sinh hoạt theo chuyên đề, do đó trong những năm qua ít nhất mỗi quý một lần chi bộ đã tổ chức sinh hoạt theo chuyên đề với nội dung sinh hoạt hết sức phong phú, hấp dẫn, góp phần nâng cao nhận thức cho đảng viên như: sinh hoạt bàn về công tác giáo dục rèn luyện đảng viên; sinh hoạt chuyên đề kiểm tra giám sát đảng viên; chuyên đề chống bỏ học, chuyên đề nâng cao chất lượng dạy và học… Nhìn chung, theo báo cáo đánh giá của Đảng ủy Sở, thì chất lượng hiệu quả sinh hoạt chi bộ tại đơn vị tôi công tác trong những năm qua khá tốt, đã được đánh giá bằng kết quả là chi bộ trong sạch, vững mạnh nhiều năm liền. Không có vấn đề gì đáng tiếc xảy ra ảnh hưởng đến uy tín của chi bộ, nhiều năm liền không có cán bộ đảng viên phải xử lý kỷ luật.

* Về hạn chế

Theo quan sát và nhận xét của tôi, trong nội dung cũng như hình thức sinh hoạt chi bộ còn rập khuôn, nên làm ảnh hưởng không ít đến chất lượng của buổi sinh hoạt. Vì vậy, tâm lý ngán ngại sinh hoạt chi bộ cũng không thể tránh được ở các đảng viên.  Việc tổ chức sinh hoạt chuyên đề tuy có quan tâm, nhưng chưa nhiều và còn hạn chế, còn lúng túng trong việc chọn chuyên đề sinh hoạt. Từ đó làm giảm các mặt về công tác xây dựng Đảng, làm cho nội dung sinh hoạt đôi lúc đơn điệu, kém phong phú và chất lượng chưa cao. Vẫn có một số đảng viên chưa thể hiện được tính tiên phong gương mẫu trong công tác, còn thụ động, ít tham gia đóng góp ý kiến, do ý thức trách nhiệm đối với tập thể chưa cao, còn ngại va chạm sợ mất lòng, tính chiến đấu trong tự phê bình và phê bình của một vài đảng viên chưa cao. Do yêu cầu của lãnh đạo bắt buộc phải gửi ý kiến đóng góp trước các cuộc họp chi bộ, nên có tình trạng các đảng viên chỉ đóng góp ý kiến một cách gượng ép, nội dung cũng không thiết thực, không có chiều sâu, không có đầu tư. Trình độ lý luận của một số đảng viên cũng còn hạn chế, nên chưa có nhiều ý kiến hay để đóng góp vào quá trình hoạt động lãnh đạo của chi bộ.

5/ Giải pháp nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ

Chi ủy, Chi bộ phải thực hiện nghiêm túc, có nền nếp chế độ sinh hoạt đảng định kỳ mỗi tháng một lần theo quy định của Điều lệ Đảng

– Tỉ lệ đảng viên có mặt sinh hoạt chi bộ phải đảm bảo đạt từ 90% trở lên so với tổng số đảng viên trong chi bộ (trừ đảng viên miễn do đi công tác)

Chi ủy, trước hết là đồng chí bí thư chi bộ phải chuẩn bị kỹ nội dung sinh hoạt

– Căn cứ chức năng, nhiệm vụ, tình hình cụ thể của chi bộ và sự chỉ đạo của cấp ủy cấp trên, đồng chí bí thư chi bộ dự kiến nội dung, chương trình và thời gian sinh hoạt chi bộ, đưa ra họp chi ủy (nơi không có chi uỷ thì trao đổi, có sự thống nhất giữa bí thư và phó bí thư chi bộ);

– Bí thư chi bộ hoàn chỉnh nội dung sinh hoạt; thông báo trước (ít nhất một ngày) cho đảng viên biết nội dung, địa điểm, thời gian để đảng viên chuẩn bị ý kiến phát biểu và dự họp chi bộ; báo cáo với cấp ủy cấp trên trực tiếp.

Sinh hoạt chi bộ gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng đảng hiện nay”; Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị và Kế hoạch số 23-KH/TU của Ban Thường vụ Thành ủy về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”

Trong cuộc họp chi bộ, ngoài việc kiểm điểm, đánh giá kết quả làm được, chưa được trong thực hiện kế hoạch khắc phục hạn chế, khuyết đểm sau kiểm điểm theo Nghị quyết Trung ương 4 và kế hoạch học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh của tập thể chi bộ và đảng viên; chi bộ phân công đảng viên, chuẩn bị nội dung theo chủ đề đã được định hướng, sau đó trình bày trước chi bộ, hoặc bài nói, bài viết của Bác Hồ về công tác xây dựng đảng, về những mẫu chuyện tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, về những nội dung thiết thực khác…; qua đó đảng viên cùng suy ngẫm, liên hệ, rút ra những vấn đề liên quan đến công việc, nhiệm vụ của chi bộ, của đảng viên để từ đó học tâp và làm theo; nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm, tích cực học tập, tu dưỡng, rèn luyện làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

Nâng cao chất lượng điều hành trong sinh hoạt chi bộ

– Bí thư chi bộ (hoặc phó bí thư, hay chi ủy được phân công) chủ trì, điều hành cuộc họp chi bộ, cần chú ý các vấn đề sau:

– Điều hành, thực hiện đầy đủ các nội dung trong chương trình;

– Chủ tọa cần nêu rõ mục đích, yêu cầu, nội dung, thời gian của cuộc sinh hoạt;

– Người được phân công chuẩn bị nội dung sinh hoạt báo cáo trước chi bộ, yêu cầu báo cáo ngắn gọn, rõ ràng, nhất là những nội dung chủ yếu, để dành nhiều thời gian chi bộ thảo luận;

– Chủ toạ hội nghị phải thực sự công tâm, khách quan, lắng nghe phát biểu của đảng viên và gợi mở những vấn đề thiết thực để đảng viên thảo luận;

– Những vấn đề cần phải biểu quyết nhưng đang còn có những ý kiến khác nhau, chi bộ trao đổi, thảo luận kỹ để tạo sự thống nhất trước khi biểu quyết;

– Cuối buổi sinh hoạt, chi bộ phải thông qua nghị quyết hoặc ý kiến kết luận của chủ toạ hội nghị, đồng thời phân công chi ủy lãnh đạo, đảng viên thực hiện có hiệu quả nghị quyết chi bộ đề ra.

Củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của chi ủy, nhất là bí thư chi bộ

– Xây dựng và thực hiện tốt quy chế làm việc của chi ủy, chi bộ; trong đó, xác định, phân công rõ trách nhiệm của từng chi ủy viên, bảo đảm chi ủy, chi bộ hoạt động đạt hiệu quả;

– Chi ủy, bí thư chi bộ phải rèn luyện mình, phải có phẩm chất chính trị vững vàng, đạo đức, lối sống lành mạnh và có uy tín, nhiệt tình trong công tác; có kỹ năng, hiểu biết công tác chi ủy, bí thư chi bộ; có năng lực, trình độ và khả năng tiếp thu, vận dụng linh hoạt, sáng tạo chủ trương, nghị quyết của cấp ủy cấp trên vào hoạt động thực tiễn của chi bộ; có tinh thần trách nhiệm, tác phong làm việc khoa học, dân chủ.

Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy cấp trên

– Cấp ủy cấp trên phân công cấp ủy viên phụ trách chi bộ, thường xuyên tham dự sinh hoạt chi bộ để hướng dẫn, giúp đỡ; hoặc có kế hoạch kiểm tra chấp hành các chi bộ trực thuộc về: Nội dung và chế độ sinh hoạt đảng; tình hình thực hiện nhiệm vụ; thực hiện các nguyên tắc sinh hoạt đảng…, để kịp thời chấn chỉnh;

– Thực hiện việc đánh giá, phân tích chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên hàng năm theo hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương và Ban Tổ chức Tỉnh ủy; đánh giá bảo đảm đúng quy trình, công khai, khách quan và dân chủ. Nội dung đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng phải căn cứ vào kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị, sự vững mạnh của cac tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Thực hiện tốt cơ chế kiểm tra giám sát, phối hợp trên dưới, trong việc đánh giá chất lượng tổ chức đảng, đảng viên; cần lấy ý kiến góp ý xây dựng tổ chức đảng và đảng viên của các tổ chức đoàn thể ở cơ quan, đơn vị trước khi chi bộ họp kiểm điểm xếp loại.

* Liên hệ bản thân:

Là một cán bộ công chức chưa đứng vào hàng ngũ của Đảng, tuy nhiên, qua quá trình công tác tại đơn vị, tôi nhận thấy các đảng viên thuộc Phòng nơi tôi công tác luôn được cấp ủy, chi bộ theo dõi, đôn đốc kịp thời và đổi mới phương pháp nhắc nhở, kiểm tra báo cáo thông qua email, và các công cụ trực tuyến như zalo group, viber group, …. Trước khi sinh hoạt chi bộ, các đảng viên được yêu cầu phải có nghiên cứu trước nội dung, chuẩn bị ý kiến phát biểu và nộp nội dung ý kiến tranh luận qua zalo, viber hoặc các hình thức khác cho một đồng chí thư ký phụ trách để tổng hợp trước, trước khi vào buổi họp, giúp cuộc họp đi vào thực chất vấn đề và nhanh, gọn. Đồng thời, các đồng chí đảng viên, trong sinh hoạt chi bộ, cũng như các cuộc họp do Phòng tổ chức luôn tích cực tham gia thảo luận, đóng góp ý kiến thể hiện rõ chính kiến của mình, tham gia biểu quyết, xây dựng nghị quyết và quyết định những vấn đề quan trọng của Phòng, của chi bộ, để lãnh đạo, thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị. Ngoài ra, các đồng chí đảng viên luôn sẵn sàng nhận nhiệm vụ, nhận sự phân công công tác của lãnh đạo phòng, của chi bộ gương mẫu thực hiện và nhắc nhở, vận động các đồng chí công đoàn viên (chưa phải là đảng viên) thực hiện nghiêm túc nghị quyết của công đoàn, nghị quyết của chi bộ.

– Sau mỗi lần họp chi bộ, tôi nhận thấy các đảng viên có những nhận thức và hành động cụ thể để cụ thể hóa chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước; lập trường chính trị, năng lực thực tiễn, ý thức tổ chức kỷ luật, am hiểu chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước của các đồng chí đảng viên cũng từng bước được nâng cao… Từ đó mà năng lực thực hiện nhiệm vụ được giao có tốt hơn, góp phần vào việc hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị của đơn vị.

By ThanhVL

Leave a Reply